Một số giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trường mầm non Ba Đình

Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non thông qua các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ để giúp trẻ phát triển toàn diện. Mỗi hoạt động chăm sóc giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non, được được tổ chức theo một hệ thống thống nhất. Cung cấp kiến thức kỹ năng có tính đồng tâm trong suất các độ tuổi từ đầu nhà nhà trẻ cho đến cuối độ tuổi mẫu giáo.

Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (LQVTPVH) là một trong những hoạt động ở trường mầm non được trẻ yêu thích. Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là loại hình nghệ thuật; đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ, từ buổi đầu thơ ấu, trẻ đã sống chan hoà trong không khí lời ru “ ầu ơ “ đầy yêu thương tận tình của bà, của mẹ. Đó chính là trẻ đã được đến với văn học và đó cũng là cánh cửa mở ra chân trời nhận thức cho trẻ. Đặc biệt văn học có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ; là phương tiên dẫn dắt trẻ đến với thế giới xung quang.

Qua những bài ca dao, câu chuyện là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập, là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, tình yêu mến bạn bè với những người thân thiết, biết được việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác, phê phán những việc làm xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn .Điều đó chính là văn học là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng cho trẻ thơ.

 Với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ và trẻ 3 tuổi, vốn từ và ngôn ngữ của trẻ đang phát triển mạnh mẽ. Vì vậy cần thiết phải quan tâm phát triển để hướng đến kết quả mong đợi tối ưu nhất về phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi.

 

doc 20 trang Người đăng phammen30 Lượt xem 8886Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trường mầm non Ba Đình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 về giáo viên
 Có đội ngũ giáo viên 100% đạt trình độ chuẩn trở lên, trong đó có 58% đội ngũ đạt trình độ trên chuẩn. Đa phần giáo viên có ý thức trách nhiệm cao với công việc, nhiệt tình công tác. 
Nhưng bên cạnh đó cũng còn có một số giáo viên tuổi đời cao nên việc tiếp cận chương trình giảng dạy còn nhiều hạn chế. 
Đa phần giáo viên nhà trường chưa quan tâm khai thác tối ưu sự tác động của hoạt động cho trẻ LQVTPVH đối với sự phát triển của trẻ.
c, Điều kiện về phụ huynh
Đại đa số phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của bậc học mầm non nên luôn quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Đã quan tâm trong việc phối hợp với nhà trường, giáo viên để chăm sóc con em mình. Luôn giúp đỡ tạo điều kiện để hỗ trợ cô giáo như: Ủng hộ cao các khoản đóng góp xã hội hóa giáo dục; tham gia làm đồ chơi cùng; sưu tầm đóng góp phế liệu để làm đồ dùng đồ chơi. vải, bông , chai lọ để làm đồ chơi phục vụ cho môn học. 
 Bên cạnh những thuận lợi vẫn còn nhiều điểm khó khăn đó là: Phụ huynh ở lớp phần lớn là làm nông thôn nên ít có thời gian và điều kiện quan tâm đến con em mình, đặc biệt là việc kèm cặp các cháu học. 
 Một số phụ huynh chưa nhận thức hết được yêu cầu và tầm quan trọng của phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 Đa số phụ huynh bận công việc không trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, trẻ không được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. 
 	Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng nào đó chỉ tay đòi là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng không ttót đến sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ.
d, Điều kiện về học sinh
Toàn trường có tổng số học sinh là 243 cháu. Đa phần các cháu ngoan, có nhận thức khá đồng đều. Khả năng ngôn ngữ của trẻ đạt yêu cầu.
2. Điều kiện thực tế của nhóm lớp.
Bản thân tôi là giáo viên có trình độ trên chuẩn, có tâm hhuyết với nghề nghiệp, được nhà trường đánh giá là giáo viên có năng lực khá.
 Đối với đội ngũ giáo viên nhà trường nói chung và bản thân tôi nói riêng. Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đã thực sự có nhiều đầu tư vào việc tư duy các phương pháp hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Đã quan tâm chú trọng đa dạng và phong phú hình thức tổ chức hoat động văn học cho trẻ.
Tổng số trẻ trong nhóm lớp tôi phụ trách có 30 cháu đa phần các cháu ngoan, nhưng có nhiều trẻ chưa qua lớp nhà trẻ nên trẻ có một số hạn chế như: Trẻ chưa có nề nếp học tập ở đầu năm, chưa mạnh dạn tự tin, Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, nhiều trẻ phát âm chưa rõ, chưa đạt vốn từ theo yêu cầu độ tuổi.chưa diễn tả được ý muốn hiểu biết của mình với người khác.
 Để tiến hành tổ chức thực hiện các giải pháp của đề tài, tôi xác định các mục tiêu giải quyết của các giải pháp qua các nội dung khảo sát chất lượng cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học như sau:
STT
 Nội dung khảo sát
Số trẻ
 Kết quả khảo sát
 Số trẻ
 %
1
Khả năng nghe theo yêu cầu độ tuổi.
 30
 17
 56
2
Sử dụng vốn câu từ theo yêu cầu độ tuổi.
 30
 15
 50
3
Sử dụng ngôn ngữ diễn đạt kể lại chuyện, mô tả lại sự việc có sự giúp đỡ. 
 30
 14
 46
Từ kết quả khảo sát, tôi đánh giá các khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ theo yêu cầu độ tuổi là thấp. Tôi xác định tiến hành giải quyết mục tiêu của sáng kiến bằng một số giải pháp tại mục III của sáng kiến.
III. CÁC GIẢI PHÁP V À TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Giải pháp giáo viên học tập nắm vững yêu cầu nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi.
Phạm vi ngiên cứu các giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổiLQVTPVH, với mục đích nhằm đến sự phát triển ngôn ngữ tối ưu của trẻ trong yêu cầu độ tuổi. Tôi đã xác định việc học tập tìm hiểu để nắm vững yêu cầu về nội dung, kết quả mong đợi về phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi là hết sức cần thiết. Vì nắm hệ thống đầy đủ nội dung thì mới có thể xây dựng kế hoạch chương trình giáo dục đảm bảo đủ và đúng yêu cầu.
Trước hết, để đảm bảo nắm vững yêu cầu giáo dục trẻ, cơ sở chủ đạo quan trong để giáo viên cần học tập nắm vững đó là các yêu cầu trong chương trình giáo dục mầm non, được ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo. Ngoài ra còn phải nghiên cứu thêm các tài liệu chính thống do bộ giáo dục ban hành liên quan đến yêu cầu giáo dục. Ở đây nghiên cứu trong phạm vi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tôi đã xác định các nội dung yêu cầu và kết quả mông đợi cần nắm vững đề thể chế hóa trong thực hiện chương trình giáo dục đó là:
* Nội dung Nghe: 
- Giúp trẻ nghe hiểu các từ chỉ người, tên gọi đồ vật, hành động, hiện tượng gần gũi, quen thuộc.
- Hiểu và làm theo yêu cầu đơn giản.
- Nghe hiểu nội dung các câu đơn, câu mở rộng.
- Nghe hiểu nội dung chuyên kể, chuyện đọc phù hợp với độ tuổi.
- Nghe các bài hát, bài thơ, ca giao, đồng giao, tục ngữ, câu đố, hò vè phù hợp với độ tuổi.
* Nội dung nói:
- Phát âm các tiếng của tiếng việt.
- Bày tỏ tình cảm nhu cầu và hiểu biết của bản thân bằng các câu đơn, câu mở rộng.
- Trả lời và đặt các câu hỏi: Ai?; Cái gì?; khi nào?; Ở đâu?
- Sử dụng các từ biểu thị sự lế phép.
- nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt ohù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp.
- Đọc thơ, ca giao, đồng giao, tục ngữ, hò vè.
- Kể chuyện đã được nghe có sự gipú đỡ.
- kể lại sự việc.
- Đóng vai theo lời dẫn chuyện của giáo viên.
Nội dung làm quen với đọc viết.
- trẻ làm quen với một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống ( Nhà vệ sinh, lối ra, nơi nguy hiểm, biển báo giao thông: Đường cho người đi bộ)
- Tiếp xúc với chữ, sách chuyện.
- Xem và nghe đọc các loại sách khác nhau.
- làm quen với cách đọc viết tiếng việt:
+ Hướng đọc, viết: Từ trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới.
+ Hướng viết của các nét chữ: Đọc ngắt nghỉ sau các dấu.
Cầm sách đúng chiều, mở sách, xem tranh và đọc chuyện.
Giữ gìn sách.
Như vậy, từ việc nắm vững các nội dung, tôi sẽ cụ thể hóa các nội dung vào 
xây dựng chương trình giáo dục, cụ thể hóa nôi dung hoạt động cho trẻ LQVTPVH theo các chủ đề phù hợp. Việc nắm vững yêu cầu có tính khoa học sẽ tránh việc thực hiện bỏ sót yêu cầu; làm cơ sở cho hoạt động đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức kỹ năng so với mục tiêu yêu cầu về văn học và phát triển nôn ngữ của trẻ hằng ngày và theo giai đoạn, từ đó có kế hoạch giáo dục tiếp theo phù hợp. 
	Từ việc xây dựng kế hoạch cho bản thân nắm vững các yêu cầu phát triển ngôn cho trẻ trong độ tuổi, bản thân tôi đã có kiến thức vững chắc để áp dụng vào giáo dục trẻ. Đánh giá khả năng và giúp trẻ nắm vững kiến thức kĩ năng một các hệ thống đủ yêu cầu, đảm bảo cung cấp kiến thức theo sự đồng tâm. 
Giải pháp xây dựng môi trường trong lớp cho trẻ LQTPVH đạt hiệu
quả.
Tôi nhận thức việc xây dựng môi trường giáo dục là rất cần thiết. Xây dựng môi trường giáo dục là học liệu cho trẻ học tập. Môi trường giáo dục đa dạng sinh động sẽ thu hút sự chủ động tích cực của trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục, mang lại hiệu quả giáo dục cao. Đối với việc tôi quan tâm đến nghiên cứu các giải pháp cho trẻ LQVTPVH, tôi xác định sẽ quan tâm đến việc xây dựng môi trường cho trẻ LQVTPVH. Đó chính là việc xây dựng các hình ảnh trực quan sinh động về các nội dung liên quan đến văn học trong môi trường trong lớp và ngoài lớp học. Các hình ảnh có sức sống động, có khả năng tác động thu hút được sự tò mò của trẻ, gợi cho trẻ các nhu cầu được hiểu biết. 
Thực hiện giải pháp này, trước hết tôi phải tư duy tìm hiểu và sưu tầm nhiều các hình ảnh, cách sắp xếp môi trường khoa học phù hợp với nhận thức và hoạt động của trẻ 3 tuổi. môi trường xậy dựng phải phù hợp với chủ đề để đáp ứng vận dụng cho trẻ hoạt động ở nhiều các hoạt động có chủ đích hay hoạt động vui chơi tìm hiểu trong chủ đề. Tuy nhiên với mục tiêu thực hiện các giải pháp để hoàn thành đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong năm học, nên tôi đã quan tâm đặc biệt đến xây dựng môi trường cho trẻ LQVTPVH.
Để xây dựng môi trường hiệu quả tôi căn cứ vào các nội dung của hoạt động cho trẻ LQVTPVH đã được cụ thể hóa trong chủ đề, để từ đó tư duy nội dung về môi trường cần xây dựng ở các không gian cụ thể của lớp. Xây dựng tại mảng chủ đề chính, các góc chơi, xâyh dựng góc sách, góc cổ tích. Các góc mang đạm mầu sắc hình ảnh về các nội dung các câu chuyện, bài thơ, ca giao đồng giao
* Xây dựng góc cổ tích
Góc cổ tích là một góc được bố trí tại một không gian hợp lý trong nhóm lớp. Trong góc xây dựng các hình ảnh, mô hình cảnh quan về nội dung, về các nhân vật trong các câu chuyện tạo cho trẻ những cảm nhân mới lạ, có cảm giác thích tìm tòi khám phá.
Ví dụ: Ở chủ đề Thế giới động vật. Chuẩn bị cho kể chuyện “ Đôi bạn nhỏ”
Tôi xây dựng trong góc cổ tích mô hình về câu chuyện “” đôi bạn nhỏ” gồm các mảng mô hình được bố trí hợp lý từ vị trí trẻ bước vào vườn đến bên trong sâu của khu vườn: 
Mô hình 1: Hình ảnh gà con và vịt con dsang thân thiện bên nhau.
Mô hình 2: Gà trên bãi cỏ tìm giun; Vịt con dưới ao mò ốc.
Mô hình 3 : Cáo đuổi bắt gà. 
Mô hình 4 : Vịt cõng gà bơi dưới ao.
	Trẻ được vào thăm vườn cổ tích, được quan sát các mô hình, trẻ sẽ tư duy tưởng tượng ra nội dung của câu chuyện theo trí tượng tượng của trẻ. Và sau đó cô sẽ giúp trẻ gợi mở để tiếp tục khai thác sâu hơn trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ tự đạt ra các câu hỏi cũng như các câu trẻ lời sáng tạo. 
	Ví dụ: Bước vào vườn cổ tích, trẻ nhìn thấy ngay hình ảnh 2 bạn gà và vịt xinh đẹp và thân mật. trẻ có thể đạt câu hỏi: Bạn gà vịt đang là gì nhỉ?; trẻ có thể tự trả lời: À, chắc là gà vịt đang đang nói chuyện; À, chắc là gà vịt đang rủ nhau đi chơi!....
Bước tiếp sâu hơn vào vườn, trẻ nhìn thấy mô hình gà đang trên bãi cỏ, vịt đang ở dưới ao. Trẻ có thể lại tự hỏi và tự đặt câu hỏi theo tri giá và tưởng tượng của trẻ.
Cứ như vậy giáo viện theo giõi và gợi mở cho trẻ kể chuyện sáng tạo qua mô hình; sau đó khi vào tổ chức hoạt động cho trẻ cô lại có thể dùng mô hình đó để giới thiệu chuyện, hướng trẻ vào tâm trạng được giải đáp thắc mắc của trẻ qua việc cô kể chuyện cho trẻ nghe.
Tương tự như vậy tôi xây dựng thay đổi các hình ảnh, mô hình theo nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài ca giao đồng giao mà trẻ sẽ học hoặc đã học để củng cố.
Trong mỗi hoạt động của trẻ với môi trường, tôi đều quan sát, tận dụng mọi tình huống, cơ hội để giúp trẻ gợi nhớ hay khắc sâu các tác phẩm văn học mà trẻ sẽ được làm quen hoặc đã cho trẻ làm quen. Cũng thông qua môi trường đã xây dựng giáo viên quan tâm khai thác sự tác động trực tiếp của môi trường đến sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 Hình ảnh 1: Xây dụng góc cổ tích tại nhóm lớp
* Xây dựng góc sách
Ngoài việc xây dựng góc cổ tích trong lớp để giúp trẻ làm quen với hình ảnh gợi mở về các tác phẩm văn học trẻ sẽ được làm quen, hoặc đã được làm quen. Tôi xây dựng góc sách của lớp. Góc sách cũng là góc được bố trí trong không gian phù hợp của lớp. Góc sách có nhiều các loại sách, tranh, chuyện tranh có nội dung phù hợp với nội dung chủ đề. Các sách tranh phải phù hợp với trẻ, là các tranh chuyện mầm non, tranh có ghép chữ to, hình ảnh sinh động hấp dẫn trẻ, có tác động đến trí tưởng của trẻ.
Xây dựng góc sách để trong các giờ chơi trẻ sẽ chủ động xem tranh, xem sách. Thông qua đó để làm quen với nội dung của các tác phẩm văn học. Thông qua các tranh chuyện, trẻ tự đặt câu hỏi về nội dung các bức tranh, tư duy về các bức tranh thành những câu chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ. Tự trả lời cho những câu hỏi mà trẻ tự đạt ra, hoặc các câu hỏi mà cô gợi mở cho trẻ tìm hiểu.
Thông qua góc sách cô hướng dẫn cho trẻ cách cầm sách, cách đọc sách, trẻ tự đọc chuyện theo tưởng tưởng; trẻ tư duy tưởng tưởng về những câu chuyện sáng tạo qua các hinh ảnh trong sách tranh. Từ đó đạt được mục tiêu phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng như phát triển các lĩnh vực giáo dục khác.
Để góc sách được phong phú thì giáo viên phải tích cực sưu tầm sách tranh, thay đổi sách tranh trong góc sách theo chủ đề, theo nội dung từng tác phẩm văn học mà trẻ sẽ học, đã học để trẻ tìm hiểu, tránh sự nhàm chán. Sưu tầm các loại tranh ảnh, hoạ báo có nội dung chương trình để làm phong phú góc sách. Để thuận tiện và hiệu quả của góc sách đối với giáo dục trẻ, việc bố trí, sắp xếp các sách tranh trong góc phải vừa tầm với của trẻ, giúp trẻ dễ lấy dễ sử dụng.
	Hình ảnh 2: Trẻ cùng cô đang xem sách tranh tại góc sách
Ngoài ra tôi tận dụng tất cả mọi không gian trong ngoài lớp đề trang trí các hình ảnh đa dạng có nội dung phù hợp để tận dụng tác động của môi trường xây dựng đến sự phát triển của trẻ ở mọi lúc mọi nơi, mọi không gian môi trường.
Để phát huy hiệu quả của môi trường đã xây dựng thì đòi hỏi giáo viên phải quan tâm đến mọi hoạt động của trẻ với môi trường. Tạo các cơ hội để khai thác sự tác động của môi trường với sự phát triển toàn diện của trẻ.
Qua việc xây dựng môi trường cho trẻ LQVTPVH trong nhóm lớp, tôi đã áp dụng trong trong hoạt động cho trẻ LQVTPVH, đã có tác động tích cực nâng cao hiệu quả cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học; có tác động tích cực và đạt hiệu quả cao về phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 
3. Giải pháp tích cực đổi mới sáng tạo hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ LQVTPVH, gây hứng thú cho trẻ tích cực tham gia hoạt động. 
 Đây là giải pháp chính để giúp trẻ LQVTPVH. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải nắm vững phương pháp và nội dung thực hiện các thể loại văn học được gợi ý trong kế hoạch của chương trình chăm sóc giáo dục. Nghiên cứu các tác phẩm ở những khía cạnh khác nhau để lựa chọn phương pháp, sáng tạo các hình thức tổ chức cho trẻ LQTPVH phù hợp, nhằm giúp trẻ thích thú được tham gia vào hoạt động. Từ việc trẻ thích thú hoạt động thì trẻ mới có thể cảm nhận được nội dung của bài thơ câu chuyện, trẻ mới có thể thực hiện trả lời được các câu hỏi của cô và trẻ mới có thể chủ động đặt ra các câu hỏi để thỏa mãn tính tò mò ham hiểu biết của mình trong các tình tiết của hoạt động.
Trước hết giáo viên phải hiểu được sáng tạo hình thức tổ chức có nghĩa là: Trong mỗi hoạt động cho trẻ LQVTPVH giáo viên phải nghĩ ra được các hình thức hoạt động sinh động để chuyển tải nội dung yêu cầu của bài dạy đến với trẻ. Hình thức đó phải phù hợp với hoạt động của trẻ, có tính mới lạ với trẻ. 
Ví dụ:
+ Khi tổ chức hoạt động cho trẻ LQVTPVH - kể chuyên 3 cô tiên. Thông thường giáo viên vấn thực hiện là: Cho trẻ ngồi vào lớp, dùng lời giới thiệu dẫn dắt để trẻ biết câu chuyện cô sẽ kể; cô kể diễn cảm lần 1; kể lần 2 theo tranh, kể lần 3
Theo mô hình, đàm thoại theo hệ thống câu hỏi chuẩn bị
Như vậy cũng có thể xem là tổ chức một hoạt động kể chuyện đạt yêu cầu. Nhưng nếu chỉ như vậy thường xuyên, trẻ sẽ cảm thấy nhàm chán, khả năng tiếp thu của trẻ hạn chế, trẻ thụ động theo trong tiếp thu kiến thức kỹ năng.
	+ Nhưng cũng hoạt động cho trẻ LQVTPVH - kể chuyện 3 cô gái. Tôi sáng tạo đổi mới hình thức tổ chức bằng cách: Tôi tạo một mô hình khu vườn cổ tích trong lớp. trước khi vào hoạt động cho trẻ đến tham khu vườn. Trẻ được quan sát 
Mô hình với những hình ảnh nhân vật, quang cảnh sinh động mới lạ. như vậy trẻ sẽ rất thích thú, tập trung chú ý để tìm tòi những điều mới lạ trong hình ảnh các nhân vật. Từ đó làm nẩy sinh trong trí tưởng tưởng của trẻ bằng nhu cầu đặt các câu hỏi: Ai nhỉ? Sao bé vậy? sao bông hoa hồng to thế; và trẻ thể hiện cảm xúc thích quá!...
Lúc này giáo viên sẽ lại đặt câu hỏi mở để kích thích tính tính tò mò cho trẻ, hướng trẻ vào hoạt động sẽ được thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu về các nhân vật như: Các con có muốn biết những cô gái trong bông hoa hồng là ai không? Các con có biết vì sao các cô gái lại bé tí teo như vậy không? Và lúc này cô mở cánh cửa cho trẻ bước vào thế giới mới mà trẻ đang muốn biết, qua việc cô kể câu chuyện diễn cảm cho trẻ nghe.
Hình ảnh 3: Xây dựng mô hình chuyện ba cô tiên tại góc cổ tích
Đó là sáng tạo hình thức cho trẻ LQVTPVH ngay từ đầu hướng trẻ vào hoạt động. Còn trong suốt quá trình trẻ hoạt động cũng vậy, cũng cần phải có hình thức sáng tạo làm thay đổi tư thế, tâm trạng học cũ của trẻ, chuyển sang một hình thức làm thay đổi tư thế tâm trạng mới giúp trẻ hưng phấn hơn với hoạt động.
	Như vậy đòi hỏi giáo viên phải thật sự có tâm huyết, có trí tưởng tượng về tâm trạng của trẻ trong mỗi hoạt động học cụ thể, để tư duy tìm ra các hình thức sinh động tổ chức cho trẻ hoạt động. Từ việc trẻ hứng thú hoạt động thì hiệu quả chuyển tải nội dung đến với trẻ sẽ rất cao.
	Qua việc thực hiện giải pháp luôn tìm tòi sáng tạo các hình thức tổ chức cho trẻ LQVTPVH, tôi nhận thấy trong tất cả các giừo hoạt động LQVTPVH trẻ đều rất thích và trẻ nhớ nội dung tác phẩm nhanh, trả lời lưu loát được các câu hỏi đảm thoại và còn đạt được các câu hỏi với cô trong khi trẻ học tập. Như vậy mục tiêu giúp trẻ phát triển ngôn ngữ qua mỗi hoạt động cho trẻ LQVTPVH cụ thể đạt được rất tốt.
4. Giải pháp dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt động mọi lúc mọi nơi.
 Với hoạt động ở mọi lúc mọi nơi tôi đã vận dụng phù hợp từng đề tài để dạy trẻ dạy vào các thời điểm thích hợp.
* Qua giờ đón trả trẻ
Trong giờ đón trẻ tôi có thể cho yêu cầu trẻ đọc các bài thơ, bài ca giao đồng giao. Tôi có thể hướng dẫn trẻ tự xếp tranh, xem tranh và kể chuyện theo tranh mà mình vừa xếp được. Qua việc trò chuyên với trẻ tôi đặt những câu hỏi liên quan đến câu chuyện phù hợp cho trẻ tư duy và trả lời.
	Ví dụ: + Hôm qua con đã được nghe cô kể câu chuyện gì?
 + Câu chuyện có nhân vật nào?...
Từ tất cả các hoạt động trong giờ đón trả trẻ, tôi đều tận dụng để giáo dục trẻ các nội dung phù hợp; đặc biệt là trao đổi trò chuyện với trẻ các nội dung có vấn đề, các nội dung liên quan đến các tác phẩm văn học, từ đó để khai thác tối ưu tác động đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Thông qua các hoạt động chơi
 Thông qua hoạt động vui chơi tôi có thể cho trẻ chơi đóng kịch phản ánh lại tác phẩm theo hướng dẫn gợi ý của cô; Chơi góc gia đình trẻ ru em bé; trẻ làm cô giáo dạy học sinh đọc thơ
*Thông qua hoạt động chiều
 Tôi có thể đọc kể tác phẩm mới được quy định trong chương trình cho trẻ nghe hoặc những tác phẩm cô tự chọn phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. việc ôn luyện tập các tác phẩm đã học trong chương trình giáo viên đọc hoặc kể lại tác phẩm cho trẻ nghe sau đó yêu cầu trẻ đọc hoặc kể lại theo gợi ý của trong các thời điểm ngoài giờ học, cô theo dõi sửa sai cho trẻ để trẻ thực hiện đúng yêu cầu mong đợi của cô. Muốn cho việc ôn luyện hứng thú tham gia tôi tổ chức dưới hình thức trò chơi: hái hoa, đoán tên, đóng kịch, hay thi biểu diễn giữa cá nhân, các tổ theo các đề tài.
* Thông qua các ngày hội ngày lễ
Thông qua các ngày hội ngày lễ trong trường là hình thức để lồng gép hoạt động cho trẻ LQVTPVH hiệu quả. 
Ví dụ: gắn liền với các ngày hội ngày lễ vào dịp kỉ niệm ngày 8/3 ,1/6, 20/11, 22/12... cô giáo tổ chức cho các cháu trong lớp, trong trường liên hoan biểu diễn văn nghệ, trong đó có thi đọc thơ kể truyện, đóng kịch theo tác phẩm văn học. Hình thức này thu hút được nhiều trẻ tham gia biểu diễn, có tác dụng động viên cho các cháu giỏi, đồng thời khuyến khích các cháu yếu, nhút nhát tham gia vào các hoạt động nghệ thuật... 
Và tương tự như vậy, tôi đã tận dụng mọi cơ hội mọi lúc mọi nơi để nâng cao hiệu quả cho trẻ LQVPVH.
5. Giải pháp làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với Văn học
Với đặc điểm của trẻ mầm non, trẻ trực quan hình tượng là chủ yếu. Bởi vậy đồ dùng đồ chơi chính là sách giáo khoa của trẻ, giúp trẻ nhận biết kiến thức dễ dàng và hào hứng trong khi học. Vì vậy việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi đủ và phong phú đa dạng phục vụ cho hoạt động học là hết sức cần thiết. Có đủ đồ dùng đồ chơi có tác động lớn đến hiệu quả cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
 Qua hoạt động dạy trẻ, tôi hiểu được đặc điểm của trẻ là trẻ rất thhích các hình ảnh nhân vật có tính dân gian như: Rối que, rối tay. Tôi đã sử dụng những phế liệu như đồ dùng bỏ đi vải, xốp để tạo nên những mô hình, đồ vật, con vật xinh xắn giúp trẻ hứng thú trong giờ văn học. Việc làm đồ dùng đồ chơi tôi căn cú vào nội dung các câu chuyện, bài thơ để làm thành các bộ rối tay hoặc rối que phục vụ cho dạy một câu chuyện.
Ngoài ra dùng các phế liệu nhựa, xốp là sạch xây dựng nên các mô hình làm đồ dùng dạy học.
	Hình ảnh 4: Đồ chơi tự làm phục vụ cho trẻ LQVTPVH
Giải pháp tuyên truyền phối hợp với phụ huynh 
 Như chúng ta đã biết, đối với trẻ mầm non môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia 
đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định về các điều kiện cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ rất cần thiết phải có đóng góp của phụ huynh. Trong việc tạo nguồn nguyên liệu, xây dựng môi trường văn học tại trường lớp, nhất thiết cần đén sự phối hợp của phụ huynh. 
Tôi đã quan tâm việc tuyên truyền với phụ huynh bằng nhiều hình thức, thông qua góc 
tuyên truyền trao đổi thường xuyên qua giờ đón trả trẻ; thông qua các kỳ họp phụ huynh, tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ nói riêng, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động cho trẻ LQVTPVH. Tuyên truyền cho phụ huynh hiểu về việc thông qua các hình ảnh sự gợi mở của người lớn, để trẻ tư duy về hình ảnh đó một cách lô gic, từ nội dung duy, giúp trẻ nói lên được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ, thông qua các câu hỏi mà người lớn gợi ý, hỏi trẻ. Từ đó phụ huynh phối hợp với giáo viên giáo dục trẻ tại gia đình, giúp việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kĩ năng kể chuyện sáng tạo của trẻ tốt hơn. 
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung về chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những hình thức có thể giúp trẻ kể lại chuyện, đọc thơ ,tư duy sáng tạo câu chuyện trẻ đã kể, yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu chuyện khác khi gặp tình huống nào đó, hình ảnh nào đó ở gia đình. 
Huy động phụ huynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhập những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo hoạ mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút xốpkết hợp trong và n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn.doc