Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin

Câu 1. Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin. Nêu ý nghĩa phương pháp luận?

Kế thừa tư tưởng của K.Mác và Ph.Ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của việc giải quyết vấn đề cơ bản nhất của triết học là cơ sở cho sự khác nhau giữa các quan điểm về phạm trù vật chất trong lịch sử triết học.

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử lâu đời, ngay từ khi mới sinh ra, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.

a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất

* Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm khách quan: Những nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới là do một lực lượng siêu tự nhiên sáng tạo ra, có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối”,.

Hêghen (1770 - 1831) nhà triết học cổ điển Đức cho rằng vật chất là “ý niệm tuyệt đối sinh ra”.

 

doc 30 trang Người đăng trung218 Lượt xem 1330Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngừng của lực lượng sản xuất trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phải được thực hiện thường xuyên. Ví dụ ở Việt Nam thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với mục đích giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế nhưng luôn phải có định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự vận dụng quy luật này ở nước ta trong quá trình xây dựng CNXH
Trước đổi mới chúng ta vận dụng quy luật này chưa tốt cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Trong nhận thức chúng ta chủ quan nóng vội, vi phạm quy luật khách quan trong xây dựng một nền kinh tế XHCN với hai hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể.
Trong hoạt động thực tiễn chúng ta vội vàng xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều.
Từ những sai lầm trên đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng
* Từ đổi mới 1986 đến nay:
Chúng ta đã có những chủ trương đổi mới để sửa chữa những sai lầm trong cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, đó là: xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Như Cương lĩnh xây dựng đất nưới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.”
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
Đối với lực lượng sản xuất: Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm việc phát triển lực lượng sản xuất thông qua sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối với quan hệ sản xuất được chú trọng trên cả 3 mặt:
+ Đối với quan hệ sở hữu chúng ta đa dạng hình thức sở hữu.
+ Đối với quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chúng ta hạch toán kinh doanh.
+ Đối với phân phối sản phẩm chúng ta ngày nay không còn bình quân cào bằng, làm theo năng lực, hưởng theo sản phẩm.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản của mọi nền kinh tế. Việc nhận thức đúng và vận dụng một cách sáng tạo quy luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đi lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như nước ta.
Câu 6. Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội? Nêu ý nghĩa phương pháp luận?
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,của những cộng đồng xã hội nảy sinh trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Song ý thức xã hội không phản ánh thụ động mà có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại tồn tại xã hội. Thể hiện ở các tính chất của ý thức xã hội như: tính lạc hậu, tính tiên tiến, tính kế thừa. Sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động trở lại tồn tại xã hội. 
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
- Ý thức xã hội là cái phản ánh của tồn tại xã hội. Do vậy, ý thức xã hội bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội – cái được phản ánh. Ý thức xã hội thường lạc hậu trên hai lĩnh vực.
Lạc hậu trong lĩnh vực tâm lý xã hội đó là trong truyền thống, tập quán, thói quen, V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất.
Lạc hậu trong lĩnh vực lý luận như một số quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
- Ý thức xã hội có tính lạc hậu so với tồn tại xã hội bởi vì:
+ Do sức ỳ của tâm lý xã hội, nhất là thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống.
+ Trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ, chẳng hạn như ý thức tôn giáo phản ánh không đúng và không kịp sự vận động, biến đổi của tồn tại xã hội.
+ Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau. Vì vậy, ý thức xã hội lạc hậu thường được lực lượng xã hội, bảo thủ, phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ.
Do vậy, ý thức xã hội lạc hậu không tự động mất đi khi tồn tại xã hội cũ đã mất mà phải thông qua cuộc đấu tranh cải tạo triệt để toàn bộ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của các lực lượng xã hội tiến bộ.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thì triết học Mácxít cũng thừa nhận ý thức xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội thì nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội có vượt trước tồn tại xã hội, đó là trong những hoàn cảnh nhất định ý thức con người nếu có khả năng phát hiện, dự báo xu hướng phát triển xã hội của các lý luận khoa học, hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng,... chỉ ra xu hướng phát triển tất yếu của xã hội.
Ví dụ: Triết học Mác – Lênin đã vạch ra những quy luật phát triển của thế giới nói chung, của lịch sử nói riêng. Đây là lý luận khoa học, tiên tiến giúp con người có thể nhận biết trước được sự phát triển của lịch sử, của tất cả các sự vật hiện tượng. 
Tính vượt trước của ý thức xã hội có vai trò rất to lớn trong đời sống. Nó giúp con người đề ra kế hoạch, mục tiêu, phương hướng, biện pháp hoạt động thực tiễn một cách khoa học, đạt hiệu quả cao. Đồng thời, con người có thể dự báo được những tình huống khó khăn, phức tạp trong hoạt động thực tiễn và chủ động khắc phục.
Phản ánh vượt trước có cơ sở và phản ánh vượt trước không có cơ sở của ý thức xã hội.
Sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội được coi là sáng tạo khi nó phản ánh đúng những mối liên hệ bản chất, tất nhiên mang tính quy luật của tồn tại xã hội. Khi ấy, sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là có cơ sở.
Nếu ý thức xã hội phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội, bị chi phối bởi mong muốn chủ quan, duy ý chí thì sự phản ánh đó là vượt trước không có cơ sở, dễ rơi vào vượt trước ảo tưởng.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Kế thừa là đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng trong sự phát triển của thế giới quan. Cho nên, trong quá trình phát triển của ý thức xã hội, bất kỳ tư tưởng nào cũng vừa là sự phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội, vừa có sự kế thừa những tư tưởng đã có từ trước trong lịch sử.
Do có sự kế thừa trong sự phát triển của nó nên không thể giải thích ý thức xã hội đơn thuần từ tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội của mỗi thời đại không chỉ phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó mà còn có cơ sở lý luận của nó. Nói cách khác, ý thức xã hội của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được xuất hiện trên cơ sở kế thừa những yếu tố ý thức xã hội của thời đại trước.
Ví dụ: Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ phản ánh thực tiễn kinh tế - chính trị, xã hội thời đại đó mà còn kế thừa những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ cổ đại đến thời đại Mác như Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chí trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, sự kế thừa của ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp. Những giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những nội dung tư tưởng khác nhau của ý thức xã hội thời đại trước.
Ý nghĩa rút ra từ tính kế thừa của ý thức xã hội.
- Trong quá trình xây dựng văn hoá tinh thần XHCN của nước ta hiện nayphải biết kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại, trước hết phải biết phát huy những giá trị tinh thần truyền thống văn hoá cao đẹp của dân tộc.
- Trong quá trình tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại, phải đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối văn hoá của Đảng, có thái độ đúng với quá khứ, tránh phủ định sạch trơn cũng như tránh bê nguyên xi những yếu tố tinh thần của thời đại trước.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. 
- Các hình thái ý thức xã hội tác động lẫn nhau. Sự tác động này vừa biểu hiện của tính tương đối, vừa là quy luật phát triển của ý thức xã hội.
- Mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản ánh theo những cách thức riêng, co nên chúng không thể thay thế lẫn nhau, nhưng lại cần đến nhau, bổ sung cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau,và cùng nhau tác động đến tồn tại xã hội.
- Trong mỗi giai đoạn lịch sử một hình thái ý thức xã hội nào đó nổi trội và đóng vai trò chi phối các hình thái ý thức xã hội khác.
- Tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể vị trí, vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, ý thức chính trị luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức chính trị là nội dung giai cấp, chi phối, định hướng phát triển cho các hình thái ý thức xã hội khác như: pháp luật, triết học, nghệ thuật, khoa học
Trong thời đại cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay, khoa học là hình thái ý thức XH có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và ý thức XH nói riêng.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo hai khuynh hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực.
Theo hướng tích cực.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của tồn tại xã hội thì thông qua hoạt động thực tiễn của con người sẽ góp phần thức đẩy xã hội phát triển.
Theo hướng tiêu cực.
+ Nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật phát triển của tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội phản tiến bộ nhất là ý thức chính trị hoặc ý thức xã hội vượt trước mang tính ảo tưởng, duy ý chí, sẽ tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ, thậm chí có thể đẩy lùi sự đi lên của tồn tại xã hội.
Mức độ, tính chất, hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của chủ thể mang ý thức xã hội; tính khoa học hay không khoa học, mức độ thâm nhập, năng lực triển khai, hiện thực hoá ý thức xã hội vào thực tiễn cuộc sống.
Ý nghĩa phương pháp luận tính độc lập tương đối của ý thức xã hội 
- Ý thức xã hội mới không hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách tự giác, lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự tham gia tích cực của quảng đai quần chúng nhân dân.
- Ý thức xã hội mới là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng dân tộc và văn hoá nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những ý thức lạc hậu, phản tiến bộ.
- Ý thức xã hội mới được hình thành phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
III. KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Câu 7: Hàng hóa là gì? Hai thuộc tính của hàng hóa, mối liên hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa? 
Hàng hoá: là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị. Theo nghĩa hẹp, hàng hoá là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong không gian và có thể trảo đổi, mua bán được. Nói cách khác hàng hoá là sản phẩm của lao động có khả năng thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Đã là hàng hóa phải có đủ các yếu tố trên, nếu thiếu 1 trong các yếu tố trên thì sản phẩm dù có ích cũng không phải là hàng hóa. Hàng hóa tồn tại dưới dạng hàng hoá hữu hình (lương thực, quần áo, giày dép, TLSX,. ) và hàng hoá vô hình (dịch vụ vận tải, dịch vụ chữa bệnh, văn hóa, giải trí,.)
Ví dụ: - Sản phẩm là hàng hóa: thóc, vải,; sản phẩm không phải là hàng hóa : không khí, ánh sáng... (không phải là sản phẩm của lao động; không mua bán, trao đổi) 
- A SX 1 tạ thóc: 90kg đem bán: hàng hóa
10kg để dành sử dụng: không là hàng hóa.
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hóa đều có 2 thuộc tính là Giá trị sử dụng & Giá trị hàng hóa.
* Giá trị sử dụng của hàng hoá: Là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người như: nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng. Vd: gạo để ăn, áo để mặc, xe để đi 
- Đặc trưng của Giá trị sử dụng của hàng hoá:
Do những thuộc tính tự nhiên của thực thể hàng hóa quyết định. Vì vậy, GTSD của hàng hoá là một phạm trù vĩnh viễn.
GTSD của hàng hoá được phát hiện dần trong quá trình phát triển của tiến bộ KHKT, của LLSX. Số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
GTSD của hàng hoá là nội dung vật chất của của cải, vì sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, nên giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi, mua bán. Tức là giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu xã hội.
VD: giấy trước đây sản xuất rất thô, chất lượng thấp nhưng ngày nay thì chất lượng giấy rất tốt, rất đa dạng.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là vật mang giá trị trao đổi.
* Giá trị của hàng hóa:
Hàng hóa vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị trao đổi. Muốn tìm hiểu giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là 1 quan hệ về số lượng, là 1 tỷ lệ theo đó 1 giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. 
VD: 1m vải = 5 kg thóc, 1 con gà = 4 lít rượu 
Như ví dụ trên, 2 hàng hóa khác nhau (vải và thóc, gà và rượu) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có 1 cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng của chúng mà đều là sản phẩm của lao động kết tinh trong hàng hóa. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy việc trao đổi hàng hóa chẳng qua là trao đổi lao động kết tinh trong hàng hóa. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và tạo thành giá trị của hàng hóa.
VD: 1m vải = 5kg thóc (tức là 1m vải có giá trị trao đổi = 5 kg thóc): LĐ của công nhân SX ra 1 m vải là 2h, lLĐ của nông dân SX 5 kg thóc cũng bằng 2h.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Đặc trưng của Giá trị hàng hoá:
Giá trị của hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử, nó tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
Giá trị hàng hoá phản ánh quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
Giá trị hàng hoá là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
* Mối liên hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hoá:
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau:
- Thống nhất vì 2 thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong 1 hàng hóa, 1 vật phải có đầy đủ 2 thuộc tính này mới là hàng hóa, nếu thiếu 1 trong 2 thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa.
Vd: không khí, ánh sáng tự nhiên rất có ích (tức có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra (tức không có lao động tác động vào) thì sẽ không phải là hàng hóa.
- Đối lập, mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: 
+ Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất, nhưng ngược lại khi là giá trị các hàng hóa lại đồng nhất về chất, mọi hàng hóa đều là kết tinh của lao động.
+ Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong 1 hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian. Giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, giá trị sử dụng được thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó nếu giá trị của hàng hóa không thực hiện được (hàng hóa không bán được) thì giá trị sử dụng của nó cũng không được thực hiện.
Câu 8: Tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá (Cơ sở hình thành 2 thuộc tính của hàng hóa)? Ý nghĩa của việc phát hiện tính chất 2 mặt của sản xuất hàng hoá?
Lao động của người sản xuất hàng hoá có tính chất 2 mặt: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới 1 hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+ Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
Ví dụ: lao động của người thợ đóng giày và nông dân sản xuất cà phê là 2 loại lao động khác nhau. Lao động của người đóng giày là tạo ra giày, dép; còn lao động của người nông dân sản xuất cà phê là tạo ra cà phê ..
+ Đặc trưng của lao động cụ thể:
Là cơ sở của phân công lao động xã hội.
KHKT ngày càng phát triển, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú.
Tạo ra GTSD của hàng hoá
Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá khi gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, đó chính là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hoá.
VD: 2m vải = 10kg thóc.
+ Đặc trưng của lao động trừu tượng:
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Giá trị hàng hoá chính là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.
Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
Lao động trừu tượng là lao động đồng nhất và giống nhau về chất.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng có tính 2 mặt. Mặt thống nhất biểu hiện chúng là hai mặt của cùng 1 lao động sản xuất hàng hoá. Mặt mâu thuẫn thể hiện ở chỗ với tư cách là lao động cụ thể, lao động của người sản xuất hàng hoá đã tạo ra giá trị sử dụng, nhưng với tư cách là lao động trừu tượng thì sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hoá có thể ăn khớp với mức hao phí lao động của xã hội.
Là mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội, giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Những mâu thuẫn này thúc đẩy sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng kinh tế.
Ý nghĩa việc phát hiện tính 2 mặt của sản xuất hàng hoá.
Đây là phát hiện khoa học của C.Mác nhằm tìm ra cơ sở giải quyết triệt để lý luận lao động, vạch rõ nguồn gốc giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá.
Chỉ ra xu hướng vận động phát triển của sản xuất hàng hoá, khối lượng hàng hoá là lượng giá trị hàng hoá.
Giải thích đúng nguồn gốc giá trị thặng dư, chỉ rõ giá trị thặng dư thực chất là giá trị hàng hoá, do kéo dài quá thời gian lao động cần thiết của công nhân.
Như vậy, với việc tìm ra tính 2 mặt của sản xuất hàng hoá đã chỉ ra được bản chất bóc lột đích thực của chủ nghĩa tư bản đối với lao động làm thuê.
Tóm lại, lao động sản xuất hàng hoá có tính 2 mặt: lao động cụ thể là tạo ra GTSD của hàng hoá và lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Giá trị và GTSD tồn tại thống nhất trong một hàng hoá.
Câu 9: Trình bày nội dung, hình thức biểu hiện cơ chế tác động và chức năng, tác dụng của quy luật giá trị? Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị và liên hệ sự tác động của quy luật giá trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam?
* Nội dung quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có trao đổi, sản xuất hàng hoá thì ở đấy có sự hoạt động của quy luật giá trị, quy luật giá trị là quy luật kinh tế khách quan.
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất: Khối lượng sản phẩm mà những người sản xuất tạo ra phải phù hợp với nhu cầu, khả năng thanh toán của xã hội.
Người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong trao đổi: Phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
* Hình thức biểu hiện của cơ chế tác động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả, thông qua sự biến đổi của quan hệ cung - cầu về hàng hoá trên thị trường.
Quy luật giá trị biểu hiện ở 3 trường hợp.
Khi cung bằng cầu, giá cả bằng giá trị.
Khi cung lớn hơn cầu, giá cả nhỏ hơn giá trị.
Khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả lớn hơn giá trị.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của quy luật giá cả hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá cả hàng hoá; giá cả là biểu hiện của giá trị.
Xét về tổng thể thì tổng giá trị luôn bằng tổng giá cả.
* Chức năng, tác dụng của quy luật giá trị.
 Quy luật giá trị tồn tại và hoạt động ở các phương thức sản xuất có sản xuất hàng hoá và có những đặc điểm hoạt động riêng biệt tùy thuộc vào quan hệ sản xuất thống trị. Nhưng nhìn chung, quy luật giá trị có 3 chức năng, tác dụng sau: 
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: 
Điều tiết sản xuất có thể di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác để tìm nơi đầu tư thu được lợi nhuận cao nhất và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Điều tiết lưu thông hàng hoá: di chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, từ nơi giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Qua đó góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Điều tiết tự phát thông qua sự lên xuống của giá cả.
- Kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động:
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau nên có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động

Tài liệu đính kèm:

  • docMacLenin_trinh_do_TCLLCTHC.doc