Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ văn

A/ PHẦN MỞ ĐẦU

 1. Lí do chọn đề tài : .

 2. Mụ đích nghiên cứu : .

 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu : .

 4. Nhiệm vụ nghiên cứu : .

 5. Phương pháp nghiên cứu : .

B/ NỘI DUNG ĐỀ TÀI : .

 PHẦN I : CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1. Cơ sở pháp lý : .

2. Cơ sở lý luận : . .

3. Cơ sở thực tiễn: .

PHẦN II : THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1. Khái quát phạm vi, địa bàn nghiên cứu :

2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu : . .

3.Nguyên nhân của thực trạng : .

PHẦN III : BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở đề xuất các giải pháp : .

2. Các giải pháp chủ yếu :

 2.1 Sơ đồ tư duy là gì?.

 2.2 Sơ đồ tư duy có lợi ích gì?.

 2.3 Một số hướng dẫn tạo sơ đồ tư duy .

 2.4 Các phím tắt sử dụng vẽ sơ đồ tư duy trên máy tính .

 2.5 Vận dụng sơ đồ tư duy cho môn Ngữ văn .

 2.6 Vận dụng SĐTD cho các phân môn môn Ngữ văn .

 2.6.1 Vận dụng SĐTD dạy học Văn học .

 2.6.2 Vận dụng SĐTD dạy học phân môn Tiếng Việt .

 2.6.3.Vận dụng SĐTD dạy

 

doc 17 trang Người đăng trung218 Lượt xem 10296Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c trạng của đề tài nghiên cứu : . . 
3.Nguyên nhân của thực trạng : . 
PHẦN III : BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở đề xuất các giải pháp : .. 
2. Các giải pháp chủ yếu :  
 2.1 Sơ đồ tư duy là gì?.......................................................................
 2.2 Sơ đồ tư duy có lợi ích gì?..........................................................
 2.3 Một số hướng dẫn tạo sơ đồ tư duy...
 2.4 Các phím tắt sử dụng vẽ sơ đồ tư duy trên máy tính..
 2.5 Vận dụng sơ đồ tư duy cho môn Ngữ văn.
 2.6 Vận dụng SĐTD cho các phân môn môn Ngữ văn..
 2.6.1 Vận dụng SĐTD dạy học Văn học..
 2.6.2 Vận dụng SĐTD dạy học phân môn Tiếng Việt.
 2.6.3..Vận dụng SĐTD dạy học phân môn Tập làm văn..
C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC (KẾT LUẬN) VÀ KIẾN NGHỊ	 
 1. Kết quả đạt được..  
	 2. Kiến nghị :  
Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
13
14
 A. PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài: 
Nhằm thực hiện chủ đề năm học 2011- 2012 là “ Đổi mới quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục”, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn trong Nhà trường THCS. Năm học 2011-2012 thực hiện theo chỉ đạo của ngành về việc thực hiện giảng dạy theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ Giáo dục & Đào tạo, để giáo viên giảng dạy đúng kiến thức và kĩ năng mới trên tinh thần phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo trong việc tiếp cận và lĩnh hội tri thức của học sinh, một yêu cầu quan trọng đặt ra là phải có sự vận dụng và phát huy những phương pháp dạy học truyền thống và những biện pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại. Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại vào việc giảng dạy từng bộ môn. 
Để đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương diện phương pháp, đáp ứng tốt hơn Chuẩn kiến thức và kĩ năng quy định thì việc làm phong phú, sinh động, khắc sâu đề tàibằng một kỹ thuật mới đó là tổ chức các đơn vị kiến thức trên hệ thống sơ đồ, ta vẫn gọi là sơ đồ tư duy, hay bản đồ tư duy . Nó không chỉ giúp cho học sinh có sự hiểu biết sâu rộng, dễ tái hiện kiến thức Ngữ văn mà còn góp phần chắp cánh cho những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn này. Đồng thời, tạo hứng thú để học sinh tham gia học tập tích cực, kiểu như: “ có thích mới nhích tư duy”. 
Thực tế vận dụng sơ đồ tư duy vào một số tiết dạy ở bộ môn Ngữ văn, chúng tôi thấy nó đã đem lại những hiệu quả nhất định. Để tiến đến sử dụng sơ đồ tư duy lâu dài và đem lại hiệu quả tối ưu, chúng tôi tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu những cơ sở khoa học của nó và vận dụng cho phù hợp với đặc trưng của bộ môn Ngữ văn. Do đó, chúng tôi chọn đề tài cho Sáng kiến kinh nghiệm này là : “Vận dụng sơ đồ tư duy dạy học môn Ngữ văn” Mong rằng với những kinh nghiệm này có thể giúp quý đồng nghiệp ít nhiều trong việc làm phong phú thêm phương pháp, kĩ thuật dạy học môn Ngữ văn, đồng thời chúng tôi rất mong có sự góp ý chân thành của quý vị để đề tài này được sâu sắc hơn về giá trị khoa học và tính hiệu dụng của nó. 	 
 2. Mục đích nghiên cứu : 
	Trong giờ văn học, giáo viên cần cung cấp kiến thức theo mục tiêu bài dạy thông qua một số phương pháp, biện pháp, kĩ thuật cụ thể. Bên cạnh nhiệm vụ đó, giáo viên còn phải khắc sâu, mở rộng, nâng cao kiến thức đã và đang học cho học sinh nhằm đáp ứng từng mức độ nhận thức của học sinh, khêu gợi sự hứng thú học tập, làm cho giờ học diễn ra sôi nổi hơn, học sinh ham học hơn, không còn cảm thấy mệt mỏi, nặng nề khi đến tiết Ngữ văn. Từ đó giúp HS chủ động chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu dạy học mới mà ngành đã đề ra. Đó chính là mục đích để chúng tôi vận dụng sơ đồ tư duy nhằm hỗ trợ về phương pháp giúp cho giáo viên có một cách tổ chức mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh và làm cho bài dạy nhẹ nhàn hơn mà hiệu quả đạt được vẫn cao. 
 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
	Vì thời gian và khả năng có hạn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu và đưa ra một số nội dung như: cơ sở khoa học để hình thành sơ đồ tư duy, các bước tạo sơ đồ tư duy, vận dụng sơ đồ tư duy cho một số kiểu bài thuộc các phân môn của bộ môn Ngữ văn 	
Phạm vi nghiên cứu, trình bày kinh nghiệm của đề tài chủ yếu là vẽ sơ đồ tư duy, cách vẽ từ những phần mềm tin học hiện hành, trên các mẫu trình chiếu PowerPoint hay trên trang Word và chủ yếu vận dụng ở bộ môn Ngữ văn 
 4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 - Giúp giáo viên có thêm tư liệu bổ sung cho phương pháp, kĩ thuật dạy học làm phong phú nội dung bài dạy.	
 - Giúp học sinh dễ hình dung các đơn vị kiến thức, dễ ghi nhớ những vấn đề phức tạp khi nó được đưa lên sơ đồ, từ đó các em hiểu vấn đề một cách có hệ thống . Đồng thời tạo cho học sinh thói quen nhận thức thế giới bằng lối tư duy quan hệ, tính logic của một vấn đề.
 -Tạo không khí hứng thú trong giờ học văn, giúp học sinh yêu thích say mê môn học.
 -Đáp ứng tốt nhất những tiêu chuẩn về kiến thức và kĩ năng mà mục tiêu môn học đã đề ra.
 5. Phương pháp nghiên cứu:
 -Phương pháp tiếp cận hệ thống, so sánh, nêu ví dụ, phân loại, thống kê.
 - Tham khảo các tài liệu dạy học có liên quan .
 - Rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy của bản thân.
 - Sưu tầm, tra cứu, học hỏi từ đồng nghiệp.
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 
Cơ sở pháp lí:
 -Căn cứ vào kế hoạch, nhiệm vụ năm học 2011- 2012 là năm học tiếp tục đổi mới công tác quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin. 
-Căn cứ vào những yêu cầu đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động và phát triển năng lực tư duy của học sinh trong việc học tập môn Ngữ văn
- Đáp ứng được yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học mà Bộ giáo dục đã quy định. 
 2. Cơ sở lí luận : 
Từ lâu các nhà sư phạm tiền bối đã từng tâm đắc: tri thức của tuổi trẻ là diện mạo của đất nước trong tương lai.Từ những năm 60 của thế kỉ trước đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn thầy giáo phải: “ gõ vào trí thông minh” của học sinh, giáo dục là đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo. Sự thông minh sáng tạo phải xuất phát từ những hiểu biết rộng lớn, nó tạo cho nền tảng tư duy được vững vàng hơn. Phải hiểu rộng, biết nhiều mới có thể chuyên sâu, mới“ làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn”. Muốn được như vậy, thì ngay hôm nay, những người thầy giáo phải tích cực, chủ động vận dụng những thành tựu dạy học tiên tiến của loài người vào giảng dạy cho học sinh, trong đó sơ đồ tư duy là một cách dạy học mới dựa trên cơ sở sơ đồ hóa kiến thức mà từ trước đến nay chúng ta vẫn vận dụng để phân tầng kiến thức, hệ thống chuỗi sự kiện hoặc thiết lập biểu bảng ôn tập tổng kết.
Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy tính hiệu quả của việc hình dung tri thức thông qua một sơ đồ hình nhánh, mỗi nhánh mang một thông tin ngắn gọn được phát triển từ một vấn đề lớn đặt ở trung tâm.. Một sơ đồ tư duy cho phép ta thỏa sức vạch ra các ý tưởng, suy nghĩ đầy đủ trước khi đưa ra một quyết định. Nếu cần xây dựng một kế hoạch làm việc, phân tích một vấn đềthì sơ đồ tư duy mang đến những giá trị lớn hơn nhiều so với việc bạn đặt bút viết từ đầu đến cuối.
3.Cơ sở thực tiễn: 
 Môn Ngữ văn trong trường THCS có vai trò rất quan trọng bỡi môn học này giúp người học không chỉ biết đọc, biết viết mà còn thấy được cái hay, cái đẹp và biết thưởng thức cái hay ,cái đẹp, của văn chương nghệ thuật. Từ đó mở mang tri thức, hình thành nhân cách của học sinh. Hơn thế nữa, môn học này còn giúp cho các em sự hiểu biết phong phú về mọi mặt của cuộc sống con người, xã hội và đất nước. Bồi dưỡng cho các em một cuộc sống tâm hồn tươi đẹp, phong phú, rộng mở. Từ đó khơi dậy niềm tự hào về đất nước, dân tộc mình và tình yêu cuộc sống, tình yêu nhân loại.Vì thế môn học này được xem là môn chủ đạo chiếm thời lượng số tiết trong tuần khá nhiều so với các môn học khác trong cấp học. Do vậy, có nhiều vấn đề văn chương nghệ thuật hay nội dung xã hội phức tạp cần có cách thiết lập dễ hiểu, dễ nhớ hay tổ chức lý thuyết cho kiểu bài rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ hoặc tạo lập các kiểu văn bản và lúc này sơ đồ tư duy là một phương tiện đi kèm hữu hiệu để giúp học sinh nắm vững lí thuyết bài học.
 PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng của đề tài nghiên cứu : 
 -Thực tế trong nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, những tìm tòi trong công tác soạn giảng và tiếp cận lượng lớn tư liệu dạy học. Tuy vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn nhiều hạn chế nhất là cách thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức lâu và tái hiện nhanh khi cần thiết vận dụng.
-Trong một số tiết học, dù vẫn cố gắn thực hiện theo chủ trương giảm tải nhưng cách tổ chức các đơn vị kiến thức vẫn còn rườm rà, kiểu như phải ghi chép thành câu, đoạn hoàn chỉnh, có khi phải nhiều câu dài dòng, trong khi đó chỉ cần một sơ đồ là học sinh có thể hiểu vấn đề thông suốt.
-Tình trạng học sinh học vẹt để đối phó trong kiểm tra đánh giá hiện nay một phần do các em hiểu vấn đề chưa tường tận hoặc bị ràng buộc bỡi “hành lang ngôn ngữ diễn đạt” mà giáo viên đã sử dụng, các em không tự tin khi dùng kho từ vựng của mình để diễn đạt, do không sử dụng nên nó cũng dễ mai một và ngày một ít sắc bén hơn. Đặc biệt với môn Ngữ văn thì đây là một hạn chế lớn, khi nói, viết được xem là yêu cầu quan trọng của HS.. 
-Những khó khăn trên nhất thiết phải có hướng khắc phục, trước tiên ta hãy từng bước vận dụng hình thức tổ chức kiến thức theo lối sơ đồ tư duy để hỗ trợ khi cần cho từng tiết dạy và có thể kiểm tra để thấy hiệu quả nhận thức của học sinh.
2. Nguyên nhân của thực trạng:
-Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở địa phương nhiều năm qua: giáo viên chưa thật sự quan tâm trong việc hình hóa kiến thức bài học. Trước đây, các tiết ôn tập chương một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. 
-Giáo viên trình bày kiến thức chính xác phong phú, sinh động nhờ sự hỗ trợ nhiều về yếu tố trực quan do công nghệ thông tin mang lại nhưng vẫn chưa đưa sơ đồ tư duy vào sử dụng đại trà để học sinh học tập hiệu quả hơn. Nhiều phương pháp kích thích sự chủ động sáng tạo ở học sinh chưa được phát huy tối đa vì thiếu thao tác sơ đồ hóa hoặc sử dụng với mật độ thấp.
- Chưa đổi mới cách ghi chép nội dung kiến thức bài học, theo kiểu kích thích tư duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Do vậy, dù ở lớp học sinh tích cực chủ động để phát hiện hiểu kiến thức nhưng khi học bài cũ ở nhà thì rất thụ động. 
 -Để có kết quả học tập tốt, ở một số bộ môn học sinh phải học vẹt vì phải nhớ kiến thức để trả lời câu hỏi mà theo các em, nội dung ghi của giáo viên là chuẩn, là cách diễn đạt tốt nhất. Chính điều này dẫn đến hiện tượng học sinh học thuộc để trả lời, đó cũng là nguyên nhân học vẹt ở học sinh
-Một phần rất quan trọng, để trả lời câu hỏi: Tại sao lập sơ đồ để dạy học là chuyện rất cũ mà trước đây giáo viên ít mạnh dạn vận dụng? Có lẽ một phần do giáo viên ngại ghi chép theo kiểu vắn tắt, chẳng ngay hàng thẳng lối, thoát khỏi quy củ đề mục, mặc dù giáo viên nào cũng có thể hình dung được kiến thức có thể thiết lập trên một sơ đồ. Nếu ai đó đã mạnh dạn làm việc này với tư cách là hoạt động trung tâm của tiết học thì chưa chắc đã được công nhận là một tiết dạy tốt. Phải chăng trước đây ta đã có sơ đồ nhưng ta chưa thật sự đổi mới tư duy. 
PHẦN III: BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1/ Cơ sở đề xuất các giải pháp:
Người thầy dạy học muốn HS học tích cực thì mình cũng phải dạy tích cực. Xuất phát từ những nguyên nhân và thực trạng vừa phân tích trên, một vấn đề đang đặt ra : làm thế nào để một tiết dạy văn học thật sự lôi cuốn, hấp dẫn, tạo hứng thú khơi gợi sự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ qua văn bản. Đồng thời, học sinh nắm vững kiến thức Tiếng Việt để học tập và sử dụng trong thực tế giao tiếp hằng ngày cũng như tạo lập các kiểu văn bản. Giáo viên phải dạy tích cực và nên vận dụng sơ đồ tư duy vào như một phương pháp quen thuộc trong nhiều tiết dạy. 
 . Hơn nữa, việc vận dụng sơ đồ tư duy còn là một chủ trương trong tiến trình đổi mới dạy học của ngành Giáo dục, nên đưa ra một cách thức tiếp cận và vận dụng cho bộ môn Ngữ văn lúc này là cần thiết để quý đồng nghiệp chia sẻ và đóng góp. Do đó, tôi đề xuất một số giải pháp cho việc thực hiện đề tài.
2/ Các giải pháp chủ yếu:
 2.1 Sơ đồ tư duy (SĐTD) là gì?
 Sơ đồ tư duy hay còn gọi là bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Sơ đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa sơ đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
2.2 Sơ đồ tư duy có ích lợi gì ?
 Bản thân thiên nhiên đã phát triển thật hoàn hảo: cân đối, vững vàng, đa dạng. Một sơ đồ tư duy cho phép chúng ta thoả sức vạch ra các ý tưởng, suy nghĩ đầy đủ trước khi đi đến một quyết định. Nếu cần xây dựng một kế hoạch làm việc, phân tích một vấn đề v.v...thì sơ đồ tư duy mang đến những giá trị lớn hơn nhiều việc bạn đặt bút viết tuần tự từ đầu đến cuối trang giấy:
* Khuyến khích làm giảm sự miêu tả của mỗi ý, mỗi khái niệm xuống thành một từ (hay từ kép).
* Toàn bộ ý của sơ đồ có thể "nhìn thấy" và nhớ bởi trí nhớ hình ảnh
* Sáng tạo các bài viết và các bài tường thuật.
* Là phương tiện cho học tập hay tìm hiểu sự kiện.
Có thể tóm lược tác dụng mà dạy học với SĐTD mang lại như sau:
2.3 Một số hướng dẫn khi tạo sơ đồ tư duy
1.Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Tại sao lại phải dùng hình ảnh? Vì một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp HS sử dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp chúng ta tập trung được vào chủ đề và làm cho chúng ta hưng phấn hơn.
2.Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh
3.Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một, nối các nhánh cấp ba đến nhánh cấp hai,.... bằng các đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần hình ảnh trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau, bạn sẽ hiểu và nhớ nhiều thứ hơn rất nhiều do bộ não của chúng ta làm việc bằng sự liên tưởng
4.Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ
5.Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,...) 
6.Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều
7.Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm
2.4 Các phím tắt hay dùng khi vẽ SĐTD trên máy tính ( mind map): (trích: Kĩ thuật vẽ SĐTD. www. Sđtd.kt @.com)
Tạo sơ đồ mơi - Ctrl N
Mở sơ đồ có sẵn - Ctrl O
Ghi lại sơ đồ đang mở - Ctrl S
Ghi lại sơ đồ với tên khác - Ctrl A
In ấn - Ctrl P
Đóng sơ đồ hiện hành - Ctrl W
Thoát chương trình - Ctrl Q
Quay về sơ đồ trước - Ctrl LEFT
Sơ đồ tiếp theo - Ctrl RIGHT
Xuất sơ đồ hiện thời sang HTML - Ctrl E
Xuất sang tệp tin MM với tên mới - Alt A
Mở tệp tin đầu tiên lưu trong lịch sử mở tập tin - Ctrl Shift W
Thêm cùng 1 cấp dưới cấp hiện thời - ENTER
Thêm cấp nhỏ hơn cấp hiện thời - INSERT
Thêm cùng 1 cấp trên cấp hiện thời - Shift ENTER
Chỉnh sửa nội dung - F2
Bật cửa sổ chỉnh sửa - Alt ENTER
Bật/đóng cấp - SPACE
Chèn liên kết file - Ctrl Shift K
Chèn link ảnh - Alt K
Tìm kiếm - Ctrl F
Tìm tiếp - Ctrl G
Cắt - Ctrl X
Sao chép - Ctrl C
Chép đơn - Ctrl Y
Dán - Ctrl V
Chế độ MindMap - Alt 1
Chế độ duyệt Browse - Alt 2
Chế độ tệp tin File - Alt 3
Nghiêng - Ctrl I
Đậm- Ctrl B
Đám mây bao phủ vùng được chọn - Ctrl Shift B
Chuyển màu nút- Alt C
Trộn màu, mờ đi - Alt B
Thay đổi màu chính xác - Alt E
Về gốc sơ đồ - ESCAPE
Lên trên - UP
Xuống dưới - DOWN
Sang trái - LEFT
Sang phải - RIGHT
Bật 1 cấp sơ đồ - Alt UP
Đóng 1 cấp sơ đồ - Alt DOWN
2.5 Tổ chức các hoạt động dạy học môn Ngữ văn bằng sơ đồ tư duy:
Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học Ngữ văn trên lớp với SĐTD: 
Hoạt động 1: HS lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân từ gợi ý của GV. Gv có thể tạo nhánh cấp một để gợi ý cho hs tiếp tục vẽ các nhánh ở cấp tiếp theo.
Hoạt động 2: Cá nhân hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, chỉ định HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. 
Lưu ý: - SĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu SĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần)
2.6 Vận dụng thiết lập SĐTD cho các phân môn trong môn Ngữ văn:
2.6.1 Vận dụng SĐTD để trình bày nội dung nghệ thuật trong một tác phẩm văn học:
Vídụ1 : Giới thiệu Truyện Kiều của Nguyễn Du:
Ví dụ 2: Giới thiệu tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh
Ví dụ: 3 Vận dụng SĐTD dạy tiết Ôn tập hay Tổng kết văn học: (Vẽ SĐTD cho Tiết Ôn tập truyện ký -Tiết 38 Ngữ văn 8)
 Ví dụ 4: Vận dụng SĐTD cho tiết : Thông tin ngày Trái Đất năm 2000 ( NV 8 T1)
2.6.2. Vận dụng SĐTD dạy phân môn Tiếng Việt:
Ví dụ 1: Lập SĐTD cho tiết: Luyện tập sự phát triển từ vựng Tiếng Việt
2.6.3 Vận dụng SĐTD cho phân môn Tập làm văn.Ví dụ: Lập SĐTD cho tiết : Đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự. (NV 9)
C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC (KẾT LUẬN) VÀ KIẾN NGHỊ:
1.Kết quả đạt được:
Sử dụng SĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây dựng kiến thức mới cho nhiều phân môn môn Ngữ văn. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, SĐTD giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống để phát triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi HS tự thiết lập SĐTD kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của GV dẫn đến kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học Ngữ văn ở lớp cho thấy, sử dụng SĐTD trong dạy học kiến thức Ngữ văn giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Gần đây, nhiều GV đã áp dụng thành công dạy học với việc thiết kế SĐTD. Vận dụng SĐTD bước đầu tạo một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong dạy học là một trong những nội dung quan trọng đóng góp vào phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang đẩy mạnh triển khai.
 SĐTD một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế SĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng, bằng cách vào trang web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về bản demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS nói chung và môn Ngữ văn nói riêng.
Kiến nghị:
-Với đặc trưng riêng của môn Ngữ văn là một môn học mang tính công cụ, điều quan trọng cần phải quan tâm là kĩ năng diễn đạt. Hiểu rành rọt là cơ sở để nói tốt, viết tốt. Tuy nhiên, như vậy chưa hẳn đã đem lại hiệu quả cuối cùng, mà cần tập cho HS kĩ năng thực hành viết với những yêu cầu của nó. Rõ ràng, khi tạo lập một văn bản hành chính hoặc bày tỏ tư tưởng, quan điểm trước một vấn đề xã hội hay văn học, HS không thể trình bày cho người đọc một sơ đồ biểu diễn những ý với nhiều màu sắc hay hình ảnh được. Vậy là việc “diễn” những từ ngữ ngắn gọn ra thành những khái niệm, câu hay đoạn văn hoàn chỉnh là một thử thách đối với HS. Giáo viên Ngữ văn nghĩ gì khi bài viết học sinh nộp là một sơ đồ? Điều đó có nghĩa là GV vận dụng SĐTD như là một phương pháp bộ phận và sẽ hỗ trợ khi thấy cần thiết, không lạm dụng.
-Hằng năm, Nhà trường, Phòng GD&ĐT phải chọn những sáng kiến kinh nghiệm hay đề tài khoa học có chất lượng để triển khai cụ thể, vừa đem lại giá trị hiệu dụng vừa phát huy những kinh nghiệm hoặc kết quả học tập mà giáo viên đã tâm huyết đã miệt mài tìm tòi xây dựng. Tạo điều kiện để những đồng nghiệp học tập lẫn nhau, góp ý cho nhau. Tránh tình trạng kinh nghiệm “ im ỉm khóa” sau khi GV tốn không ít suy tư và giấy mực 
 Hòa Thành, ngày 10 tháng 10 năm 2011
 Người viết sáng kiến 
 Nguyễn Trọng Pháo
****************************************
DANH MỤC TÀI LIỆU

Tài liệu đính kèm:

  • docBai_1_Toi_di_hoc.doc