Bài dự thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào” (Bài số 3)

LỜI MỞ ĐẦU

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; mối quan hệ ấy đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, quan hệ đặc biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan, nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế mà nhân dân hai nước đang tiến hành đã tạo ra những xung lực mới, đồng thời đặt ra những yêu cầu khách quan về tăng cường mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam với những phương thức mới và những nội dung mới.

 

doc 31 trang Người đăng hanhnguyen.nt Lượt xem 675Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài dự thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào” (Bài số 3)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
P TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2007
Từ giữa thập niên 1980, tình hình quốc tế và khu vực có những biến đổi chưa từng thấy, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục tác động sâu sắc đến mọi quốc gia. Để hội nhập với khu vực và quốc tế, hai nước Việt Nam và Lào đứng trước một yêu cầu tất yếu phải tiến hành đổi mới, nhằm hoàn thiện chế độ xã hội của mình và từng bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. 
Đây là lúc mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp được vận hành qua 10 năm sau giải phóng (1976-1985) ở Việt Nam và Lào đã không còn phát huy được hiệu quả, đẩy cả hai nước vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; trong khi ở bên ngoài, hai nước vẫn bị các lực lượng thù địch bao vây cấm vận. 
Đại hội IV đổi mới của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 11 năm 1986) đã thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng trong công tác lãnh đạo: đó là tư tưởng chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa như muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; vội vàng chuyển các xí nghiệp không cần thiết sang sở hữu nhà nước; nóng vội đưa nông dân vào làm ăn tập thể mà không xem xét các điều kiện, nguyên tắc và năng lực tổ chức, quản lý, đi đôi với việc chậm giải quyết cơ chế quản lý bao cấp, tập trung quan liêu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh[3].
Đại hội VI đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1986) cũng tự phê bình nghiêm khắc: “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[4]. 
Thuận lợi cơ bản nhất đối với việc củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là hai nước có nhiều lợi ích chiến lược và thể chế chính trị - xã hội tương đồng. Hai nước gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; hợp tác mật thiết với độ tin cậy cao trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng; hỗ trợ, giúp đỡ nhau bảo vệ và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quản lý biên giới. Cả Việt Nam và Lào đều coi nhau thuộc ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước được triển khai đều khắp, ngày càng sâu rộng và khăng khít trên cả ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ trung ương tới các địa phương, nhất là các địa phương có chung đường biên giới...
Về mặt khó khăn, trong điều kiện mới của toàn cầu hóa kinh tế, hai nước Việt Nam và Lào không những phải đối mặt với những thách thức chung mang tính toàn cầu mà còn phải vượt qua những cạnh tranh gay gắt từ chính các nước láng giềng có quan hệ gắn bó với Lào và Việt Nam, từ các chương trình hợp tác đa phương mà cả Việt Nam và Lào đều là thành viên. Vì vậy, việc lựa chọn nội dung hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Lào sao cho phù hợp, có hiệu quả, không chồng chéo với các chương trình hợp tác của các nước khác và mang dấu ấn của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là vấn đề đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhất là trong điều kiện cả Việt Nam và Lào đều đang gặp khó khăn lớn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và trình độ quản lý.
Trong khi đó, các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lại ra sức lợi dụng sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, tăng cường gây sức ép, áp đặt điều kiện, thậm chí can thiệp vào công việc nội bộ của hai nước. Mưu đồ của chúng là theo đuổi chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm thay đổi thể chế chính trị, ngăn cản Việt Nam và Lào huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, chúng ráo riết chia rẽ và phá hoại mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, tạo sự bất ổn định ở mỗi nước để dễ bề thâu tóm, khống chế. 
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Việc hợp tác kinh tế giữa ba nước (Đông Dương - BBS) phải theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, có ưu tiên ưu đãi cho nhau, và phải có những chính sách, phương thức thích hợp, bảo đảm hiệu quả thiết thực”[5]. Ngày 3 tháng 7 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị: “Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này[6], các bộ, ban, ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”[7]. 
Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào - Việt Nam - Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”[8]. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là, mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”[9]. Trong hoạt động thực tiễn, từ cấp trung ương đến cấp cơ sở, việc bảo vệ và phát triển quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam đã trở thành đường lối chiến lược, tình cảm thiêng liêng và nghĩa vụ quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào, là một trong những tiêu chuẩn rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân Lào. 
Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 3 năm 1991) xác định tính chất và giai đoạn của cách mạng Lào hiện nay: “đang ở trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo ra các tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội”[10]. Đây là một nhận thức rất quan trọng, chỉ ra tính chất, quy mô và bước đi thích hợp nhằm định hướng tiến trình đổi mới và phát triển của đất nước Lào trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đến, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa V (tháng 2 năm 1993), lần đầu tiên Lào đề ra nhiệm vụ chung, mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của cả nước từ năm 1993 đến 2000. 
Từ ngày 24 đến 27 tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tổng kết năm năm đổi mới, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, đồng thời cam kết: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[11]. Đến Đại hội IX (tháng 4 năm 2001), Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung cam kết: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[12]. 
Việc Việt Nam và Lào xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của mỗi nước đã tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Căn cứ vào thoả thuận giữa Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 10 năm 1991 và thực hiện Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ ký ngày 15 tháng 2 năm 1992, Ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam và Ủy ban Kế hoạch và Hợp tác Lào cùng phối hợp đề ra Chiến lược hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào. Chiến lược này là cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng và quyết định các chương trình và dự án kế hoạch hợp tác trong thời gian tới. 
Trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 và sự dịch chuyển các dòng đầu tư và trao đổi thương mại mới ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cũng thật sự chuyển sang một giai đoạn mới, chịu sự tác động trực tiếp của tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực diễn ra ngày càng sôi động và sâu sắc, mà trọng tâm của nó là tự do hóa thương mại. Việt Nam và Lào đều là những thành viên mới của ASEAN[13]. Đây là lúc hai nước tích cực triển khai thực hiện các thỏa thuận cấp cao, trong đó có Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 2001-2010 và Sáu chương trình hợp tác trọng điểm giai đoạn 2006-2010[14].
Khu vực Đông Nam Á nói chung và Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS)[15] nói riêng đang gia tăng mạnh mẽ các lộ trình hội nhập trên nhiều cấp độ[16]. Thông qua tiếp cận của toàn ASEAN như là một đầu mối phối hợp cho các sáng kiến hợp tác Đông Á, Việt Nam và Lào cũng đã và đang thể hiện sự chủ động tham gia vào các chương trình hợp tác Đông Á. Trên cơ sở sự mở rộng của Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), các phương thức hợp tác ASEAN+1, ASEAN+3, đều được Việt Nam và Lào tích cực hưởng ứng. Đặc biệt, chương trình hợp tác GMS với sự hỗ trợ và tham gia của ADB là trụ lực chính trong tiến trình hợp tác của tiểu khu vực này. 
Đây là cơ hội lớn và điều kiện quan trọng để các nước GMS nâng cao năng lực phát triển toàn diện; đồng thời, nó cũng đặt ra một thực tế là các nước GMS sẽ không thể phát triển đơn lẻ, biệt lập mà luôn phải gắn kết trong chương trình phát triển tổng thể của GMS, gia tăng hơn nữa sự phối hợp giữa chính sách quốc gia và chính sách khu vực. Như vậy, với những điều kiện quốc tế và khu vực mới, Việt Nam và Lào đang có cơ hội khai thác vị trí địa lý, tiềm năng và lợi thế của riêng mỗi nước nhằm bổ sung cho nhau cùng phát triển. 
Việt Nam với thế mạnh về kinh tế biển và vận tải biển, có thể phát huy vai trò là “cửa ngõ” ngắn nhất ra biển của Lào, để Lào có điều kiện lưu thông thương mại quá cảnh với khu vực và quốc tế. Tương tự như vậy, với tư cách “một trạm trung chuyển” trong nền kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng, có lợi thế về vận tải và thương mại quá cảnh, Lào có thể giúp Việt Nam mở rộng thị trường vào nội địa Đông Nam Á, châu Á và thế giới.
Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục được củng cố, tăng cường và đạt những thành tựu rất lớn lao
Hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại
Từ năm 1988, cuộc gặp hằng năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Biên bản thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị là văn kiện quan trọng quyết định những phương hướng lớn của quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong từng thời kỳ và hằng năm.
Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu, từ ngày 2 đến 4 tháng 7 năm 1989. Đây là chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước và giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam - Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân cách mạng Lào thăm chính thức Việt Nam. Nhân dịp này, hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một tăng cường củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi đoàn cấp thứ trưởng ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.
Năm 1992 là năm đột phá trong hoạt động đối ngoại của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng. Những chuyến thăm Thái Lan và Trung Quốc của đồng chí Cayxỏn Phômvihản trên cương vị Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước trong khu vực, cũng như tạo cơ hội cho tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. 
Trong hai năm 1994-1995, đáp ứng yêu cầu của phía Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cử nhiều cán bộ cấp cao, kể cả các ủy viên Bộ Chính trị sang giới thiệu kinh nghiệm tại các Hội nghị Trung ương 8, 9, 10 (khóa V) của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và các cuộc tập huấn cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước tại Viêng Chăn. Hình thức đào tạo hiệu quả và thiết thực này được phía Lào đánh giá cao, vì đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách trước mắt của Lào.
Xác định chủ trương chiến lược đa phương hoá, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của mỗi nước, bên cạnh việc mở rộng quan hệ với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, trên lĩnh vực quan hệ đối ngoại, hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được đẩy mạnh toàn diện trên cả ba kênh: ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân.
Trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp trung ương đến cấp tỉnh ủy... sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Đặc biệt, công tác lãnh đạo của Đảng và xây dựng đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước luôn là những đề tài trọng tâm trong các cuộc trao đổi giữa hai Đảng.
Quan hệ giữa hai Nhà nước cũng được đẩy mạnh trong thời gian này. Hai nước tăng cường trao đổi thông tin và tham khảo ý kiến của nhau về các vấn đề hợp tác khu vực và quốc tế có liên quan đến quyền lợi của mỗi nước. Ngay từ năm 1992, giữa hai Nhà nước đã thành lập Ủy ban Hợp tác liên chính phủ để giúp cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không ngừng phát triển.
Hoạt động ngoại giao nhân dân cũng đạt được nhiều thành tích đáng kể. Hằng năm, giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa, đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả.
Mở đầu cho thời kỳ 1996-2007 là cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng, tháng 1 năm 1996 tại Viêng Chăn. Hai bên đã thống nhất những định hướng lớn cho sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai đoạn 1996-2000. Trên cơ sở đó, ngày 14 tháng 11 năm 1996, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai đoạn 1996-2000. Đầu tháng 1 năm 1997, Đoàn cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào hội đàm tại Hà Nội. Hai bên khẳng định: tăng cường hợp tác về chính trị, duy trì cuộc gặp hằng năm giữa hai Bộ Chính trị, tăng cường hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao, nhất là khi hai nước cùng tham gia ASEAN và AFTA; tăng cường phối hợp chống vận chuyển ma túy qua biên giới; tăng cường hợp tác giữa các tỉnh có chung biên giới, cho phép mở chợ đường biên, khuyến khích trao đổi hàng hóa, giao lưu buôn bán, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng; hai bên thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật theo hướng lựa chọn các công trình, dự án phù hợp với khả năng và điều kiện của mỗi nước.
Tháng 1 năm 1999, trong cuộc gặp cấp cao hằng năm tại Hà Nội, Bộ Chính trị hai nước nhất trí tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam “trên cơ sở nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và phát huy cao nhất nội lực của mỗi nước, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào với thông lệ quốc tế, ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước khắc phục hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước hội nhập khu vực và quốc tế”1.
Hai bên chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác về chính trị, duy trì cuộc gặp hằng năm giữa hai Bộ Chính trị; tăng cường hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, Bộ Ngoại giao phối hợp hành động trong quan hệ với ASEAN, AFTA (Khu vực thương mại tự do ASEAN), ARF (Diễn đàn khu vực ASEAN).
Hai bên thống nhất khẩn trương xây dựng Định hướng chiến lược hợp tác đến năm 2020 và Chương trình hợp tác từ năm 2001 đến 2010. Tiếp tục hợp tác toàn diện, tập trung ưu tiên cho các lĩnh vực quan trọng có hiệu quả cao, trước hết tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi để từng bước giúp Lào giải quyết vấn đề an ninh lương thực. Chính phủ hai nước cần có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư giữa hai nước, coi đây là trọng điểm hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 1999 và những năm tiếp theo.
Trong các cuộc viếng thăm của các đoàn cấp cao, hai bên đã tiến hành trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trên nhiều lĩnh vực: lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội; quản lý nhà nước; xây dựng đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung bình mỗi năm có khoảng hơn 200 đoàn qua lại trao đổi, thăm viếng lẫn nhau. Việc chia sẻ những kinh nghiệm hay và các mô hình phát triển kinh tế - xã hội tốt, hỗ trợ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực là rất cần thiết và đem lại hiệu quả thiết thực cho cả hai bên, góp phần quan trọng vào việc vun đắp quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Hai bên nhất trí phối hợp nghiên cứu, biên soạn Công trình “Lịch sử quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007” nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên một tầm cao mới.
Lĩnh vực hợp tác về đối ngoại từ sau năm 1996 tiếp tục được tăng cường cả về chiều rộng cũng như chiều sâu, đem lại nhiều kết quả khả quan. Trong khi triển khai đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam và Lào đều hết sức coi trọng quan hệ đặc biệt giữa hai nước, cam kết giữ gìn và không ngừng phát triển truyền thống quý báu đó như một quy luật phát triển và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.
Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Trong bối cảnh luôn luôn bị các thế lực thù địch tìm cách chống phá, Việt Nam và Lào xác định hợp tác về quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ rất cấp bách và quan trọng hàng đầu.
Từ cuối thập niên 1980 và những năm đầu thập niên 1990, giữa hai Chính phủ, hai bộ chức năng là Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng của hai nước đều ký những hiệp định, nghị định về hợp tác, hỗ trợ nhau trong công tác bảo vệ an ninh và củng cố quốc phòng. Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng của cả hai nước đều rất coi trọng việc trao đổi thông tin và kinh nghiệm xây dựng lực lượng, chống xâm nhập, chống bạo loạn và vô hiệu hóa các hoạt động “diễn biến hòa bình” của kẻ địch. Trong mối quan hệ này, phía Việt Nam luôn chủ động và đảm nhiệm gánh vác các công việc khó khăn nhất với phương châm “Giúp bạn là mình tự giúp mình”, “An ninh của bạn cũng chính là an ninh của mình”,... Việt Nam đã hợp tác với Lào củng cố và xây dựng lực lượng an ninh Lào có chất lượng cao, đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
Bộ Quốc phòng hai nước thường xuyên gặp gỡ, tham vấn về chiến lược quốc phòng dài hạn và đường lối quốc phòng toàn dân, toàn diện của nhau. Theo yêu cầu của phía Lào, Việt Nam hợp tác xây dựng Quân đội nhân dân Lào trở thành một đội quân vững mạnh về chính trị - tư tưởng, tổ chức và chuyên môn, có sức chiến đấu cao, làm chỗ dựa cho thế trận chiến tranh nhân dân ở Lào. Chiến công chung nổi bật về hợp tác an ninh - quốc phòng giai đoạn này là việc quân và dân Lào chủ động phối hợp chặt chẽ với quân đội Việt Nam chặn đánh cuộc hành quân Đông tiến I và Đông tiến II của lực lượng phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh cầm đầu vào Việt Nam qua con đường Lào trong hai năm 1986-1987. Bằng việc triển khai rộng khắp chiến lược quốc phòng toàn dân, Lào đã có những cống hiến thực sự vô giá trong vai trò “nút chặn” an ninh ở phòng tuyến phía tây Việt Nam, giúp Việt Nam phòng thủ từ xa một cách có hiệu quả. 
Bước sang giai đoạn 1996-2007, trên cơ sở định hướng của thỏa thuận giữa hai Bộ Chính trị về quốc phòng - an ninh, hai Bộ Quốc phòng Việt Nam và Lào tiếp tục tiến hành các cuộc gặp trao đổi, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị - tư tưởng, tổ chức và chuyên môn. Hằng năm, phía Việt Nam cử chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ quốc tế xây dựng các kế hoạch và lập phương án tác chiến giúp bạn Lào. Các quân khu, các tỉnh có chung biên giới xúc tiến chương trình hợp tác, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng thế trận cụm chiến đấu liên hoàn và củng cố các lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương để đẩy mạnh sản xuất, kết hợp với bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Về đào tạo cán bộ, ngoài chương trình đào tạo dài hạn, Bộ Quốc phòng Việt Nam còn thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị của quân đội Lào. Từ năm 2000 đến 2005, Việt Nam nhận đào tạo dài hạn hơn 600 cán bộ cho quân đội Lào.
Việc tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trên đất Lào cũng được hai bên quan tâm, tích cực phối hợp và đạt được kết quả tốt, trong đó sự giúp đỡ to lớn của chính quyền và nhân dân các địa phương trên đất Lào càng tô thắm thêm tình nghĩa thủy chung đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Tính đến hết năm 2007, hai bên đã tìm kiếm và đưa về Việt Nam hơn 12.000 hài cốt liệt sĩ.
Điểm nổi bật trong việc hợp tác về an ninh thời kỳ này là công tác phòng thủ an ninh của các lực lượng an ninh và quân đội hai nước chống lại lực lượng phản động lưu vong đang tìm các

Tài liệu đính kèm:

  • docBAI SÔ 3.doc