Cảm nhận về chi tiết “bát cháo hành” và “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm”
1.Vài nét về tác giả và tác phẩm
- Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, nhà hiện thực bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại; sáng tác vừa
chân thực giản dị vừa thấm đượm ý vị triết lí nhân sinh; có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí phức tạp của
con người.
- Chí Phèo và Đời thừa là những truyện ngắn xuất sắc, rất tiêu biểu cho sáng tác của Nam Cao trước
Cách mạng tháng Tám. “Bát cháo hành” và “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” là những chi tiết đặc sắc
góp phần quan trọng thể hiện tâm lí nhân vật, tư tưởng tác phẩm và điển hình cho nghệ thuật Nam Cao.
2. Về chi tiết “bát cháo hành”
- Ý nghĩa về nội dung:
+ Thể hiện sự chăm sóc ân cần của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
+ Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc tình yêu
muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
+ “Bát cháo hành” đã đánh thức tính người bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo:
* Gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê
thảm hiện tại của mình
n. Không lời đáp”, còn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc : “làm thế nào để được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy?” Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này. Kết luận Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Nó cho thấy tài năng bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, trong ngôn ngữ trần thuật ... nhưng trên hết cả, người đọc nhận ra một lí trí sắc lạnh vạch trần và tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân phong kiến đồng thời còn cả một tiếng nói đầy xót thương cho số phận bi kịch của những người nông dân, những kẻ sinh ra làm người mà bị từ khước, bị tước đoạt quyền làm người Gmail: vuongdatminh@gmail.com Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20 Trang | 3 PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH THA HÓA VÀ HỒI SINH CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO A.QUÁ TRÌNH THA HÓA: Mở Bài: +Tác phẩm Chí Phèo được ra đời năm 1941.Nguyên có tên là ”cái lò gạch cũ” đến năm 1941 nhà xuất bản tự đổi tên thành “đôi lứa xứng đôi” đến năm 1946 tác giả đổi tên thành Chí Phèo +.Chí Phèo là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng. +Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”,đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán trong giai đoạn 1930-1945. +Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình,nhân vật Chí Phèo,phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam. +Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một người nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lội,bị cự tuyệt quyền làm người,hay nói cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được. +Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo:biến hóa lúc kể,lúc tả,triết lí thì thấm thía,trữ tình thì đau đớn xót xa...đầy ám ảnh nghệ thuật,làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay. Thân bài: 1.Hình tượng nhân vật Chí Phèo: -Hoàn cảnh xuất thân của Chí Phèo(xuất thân là người nông dân nghèo, lương thiện) + Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”.Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”,sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối.Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ,không cha mẹ,không họ hàng thân thích,không một mái lều che thân,không một tấc đất cắm dùi “ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”,đến năm hai mươi tuổi làm canh điền cho lí Kiến.Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là hai mươi năm trời đắng cay không chốn nương thân. +Chí là một người hiền lành,có lòng tự trong:khi bị bà ba sai bóp chân,hắn “vừa làm vừa run”,Chí” thấy nhục hơn là thích”trước một việc làm mà Chí cho là “không chính đáng”.Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng,bắt hắn bóp chân,hay xoa bụng,đấm lưng gì đấy”.Chí không phải là gỗ đá,nhưng hắn”thấy nhục hơn là thích,huống hồ lại sợ”.Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu,Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan tên bắt Chí giải lên huyện,bỏ tù hắn bảy,tám năm trời.Chế đô nhà tù thực dân nửa phong kiến tàn bạo,dã man đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện,hiền lành trở thành một tên lưu manh,một con quỷ dữ của làng Vũ Đại -Từ khi ra tù đến trước khi gặp Thị Nở(quá trình tha hóa của Chí Phèo) a.Thay đổi đột ngột cả về nhân tính và nhân hình: +Nhân tính:trở thành một tên lưu manh,một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. +Nhân hình:bị xã hôi lưu manh vằm nát bộ mặt người. + Đi tù”biệt tăm”,bỗng đâu hắn lại”lù lù lần về”.Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn,thay đổi đột ngột cả về nhân tính và nhân hình”cái đầu thì trọc lốc,cái răng cạo trắng hớn,cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng,hai mắt gườm gườm trong gớm chết”.Chí mặc cái quấn nái đen,cái áo tây vàng,cái ngực và cái tay đầy những nét chạm trỗ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy. Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thị chó ở chợ từ trưa tới xế chiều,cho đến lúc say khướt. b.Hành động chửi của Chí Phèo: +Chí Phèo sống triền miên trong những cơn say,trong mỗi cơn say thì hắn lại chửi.Tất cả dân làng đều sợ hắn”tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”.Hắn chửi ai cũng nghĩ”mặc thây cha nó”,ai cũng chẳng thèm nghe,khác nào”những người say rượu hát”.Hình ảnh Chí Phèo”vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng,mấ trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng.Hắn chửi suốt,chửi trời,đấng tối cao của muôn loài,chửi đời”đời là tất cả nhưng chẳng là ai”,chửi cả làng Vũ Đại,cái cộng đồng gần gũi thiêng liêng của con người,chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn,”tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn”nhưng không ai lên tiếng cả.Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người.Chí Phòe cứ chửi”chửi rồi lại nghe”.Hắn bị bao vây bởi một”sự im lặng đáng sợ”.Năm thì mười họa mới”ba con chó dữ với một thằng say rượu.Hắn đã hoàn toàn bị xã hội cự tuyệt không được nhìn nhận là người. c.Chí Phèo đến nhà Bá Kiến: + Trong cơn say hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá kiến chửi”mồ tả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ!Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô Gmail: vuongdatminh@gmail.com Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20 Trang | 4 cùng ngang ngược.Đó là lối hành động của một kẻ say rượu mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đầy mối thù càng được hun đúc, nuôi dưỡng ngày càng sâu sắc và đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến quyết định đúng đắn. Cho nên, hơn bao giờ hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chí trong lần đối đầu đầu tiên này là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến . Bá Kiến lá kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiếu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại trong ê chề, cay đắng với những lời vuốt ve, ngon ngọt cộng thêm vài đồng đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là kẻ đi hỏi tội kẻ thù chỉ thoắt một cái ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết. + Lần thứ hai cũng trong dáng điệu say mèm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để được xin đi tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lí đến mức dậy chắc chỉ có Chí Phèo. Tuy là nghịch lí nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất cắm dùi cũng khoomg. Cảnh ngộ bi đát của Chí phần nào phản ảnh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giở đó là người lầm đường lạc lối, trot sa chân vào cũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. chí bị tù đến khi được trả về cuộc sồng đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế lại tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Nghe Chí nói với Bá Kiến mà thấy xót xa trong dạ:” Bẩm quả đi tù sướng quá đi, ở tù có cơm ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có”. Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chử thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút ta mới thấy ngỡ ngàng và lương tâm chẳng được thanh thản. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để canh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó biến những kẻ lương thiện tơ thành một loại người lưu manh khốn nạn. Nhà văn Huy-gô rất đúng khi nói” Khi chưa vào tù anh là một cành cây tươi , khi ra tù anh là một cây củi khô”. Cũng như lần trước, Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá: bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao.” Dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. Cả Chí và đội Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên và trăng có xảy ra xô xát, ai được, ai mất cụ Bá đều có lợi, vừa thỏa mản được ý định trả thù vừa không phải mang tiếng là kẻ báo thù nhỏ nhen, đê tiện. Cũng kể từ đấy. Chí mức phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến.Hắn chìm ngập vào vũng bùn tâm tối tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình”đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi,” ba mươi tám hay ba mươi chin? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như” cái mặt của con vật lạ”với màu” vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo” vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “ bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém., người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn dể kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông”hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say ,thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”.Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh,tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỹ dữ làng Vũ Đại:”hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơn nghiệt, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. + Chí Phèo là điển hình cho một quy luật có tính phổ biến trong xã hội cũ đó là quy luật bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Nỗi đau lớn nhất của Chí Phèo là nỗi đau của một con người bị tàn phá về thể xác, bị hủy diệt về tâm hồn ,bị xã hội cự tuyệt quyền làm người, đó là giá trị tố cáo, giá trị hiện thực mới mẻ của tác phẩm. B.QUÁ TRÌNH HỒI SINH: -Diễn biến tâm lí,tình cảm của Chí Phèo/từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ: + Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì Nam Cao bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Ông mang đến cho Chí một”thiên sứ”- Thị Nở với hi vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo. + Chí Phèo gặp Thị Nở ở bờ sông, trong lúc say. Thị Nở là” một người đàn bà dở hơi, xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng” + Con người xấu đến”ma chê quỷ hờn”, kì diệu thay, Thị Nở lại là nguồn ánh sang duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sang qua bao này tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn nủi với Thị Nở tron một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc Gmail: vuongdatminh@gmail.com Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20 Trang | 5 sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng: thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. + Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy” long buân khuâng mơ hồ buồn.” tiếng chim hót, tiếng ngời đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn” chao ôi là buồn!” Tiếng vọng của đời hường đã đánh thức linh hồn Chi. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ” có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải” nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba xào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngòai bốn mươi tuổi đầu Chí cảm thấy, đã tới cái dốc bên kia cuộc đời, và hắn lo, hắn sợ” đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. + Bát cháo hành của Thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn.Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo”trời ơi cháo mới thơm làm sao!”.Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà.Mấy chục năm qua hắn muốn ăn thì phải dọa,phải cướp thế mà”lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn Thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ nhìn nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật” nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì sao. Thằng lưu manh chỉ mạnh về liều. Sẽ có một lúc nào đó” không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy! +Chí Phèo vốn là người lao động cùng khổ lương thiện”cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi”.Cùng với tình yêu,sự săn sóc của thị Nở,”trận ốm hay đổi hẳn về sinh lí,cũng thay đổi cả về tâm lí nữa”của Chí Phèo. -Khát khao hoàn lương và mong ước hanh phúc: + Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện:” Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. + Chí khát khao hạnh phúc và có một gia đình:” Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”,” Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.” Câu nới ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khát khao muốn được làm người,”thèm lương thiện” và” mốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!... Câu trả lời của Thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn. + Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu,Chí phèo”bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rẽ bèo. Chí Phèo” say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng:” hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến Thị Nở, bà thấy cháu sao” sao mà đỉ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên” như con ma dại”. Bà quyết không cho phép cháu bà” đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người ở làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là” quỷ dữ” ,mát rồi. hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn” muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn” ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn: sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo” nắm lấy tay’ Thị, nhưng bị Thị gạt ra, dúi thêm cho một cái gã” lăn khoèo xuống sân”. Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “ đâm chết con đĩ Nở kia”, “ đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. rồi “ hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi hắn đã say mềm người rồi hắn đi. Hăn sra đi với một con dao ở thắt kuwng với câu nới lảm nhảm:” Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa” trời nắng, đường vắng”ấy, chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá kiến” không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền” làm người lương thiện!”. câu nới của Chí Phèo” Ai cho tao lương thiện? làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!...” đó là những lời đan thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo” văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. chí Phèo đã chết bi tảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mắt anh. +Bi kịch của CP là bi kịch của một con người cố gắng vùng vẫy ngoi lên nhưng càng cố gắng thì càng bị đạp xuống sâu hơn không ngốc đầu lên được. -Bản cáo trạng tố cáo xã hôi đương thời: +Tác giả tố cáo xã hội phong kiến bất công, đã khiến con người sinh ra là người mà không được làm người. Gmail: vuongdatminh@gmail.com Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20 Trang | 6 +Tố cáo Bá Kiến,Lí Cường,một kẻ cáo già lọc lõi,nham hiểm,đại diên cho bọn địa chủ cường hào ở nước ta thời TCM. +Tố cáo làng VĐ là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối ná,cái ác ngự trị,vô tình nhẫn tâm không xem CP là người,không dám dang tay cứu giúp CP. +Tác giả muốn thể hiện bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng họ đã bị xã hội tàn bạo cướp đoạt tất cả.Cái chết của CP:đánh đổi sự sống để khẳng định nhân cách cá nhân,quyền làm người. ->Bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội tàn bạo bất công đã đạp con người xuống vũng bùn,không cho người ta được làm người lương thiện. Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua - Ý nghĩa nội dung: + “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân. + Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ. - Ý nghĩa nghệ thuật + Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn. + Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận Gmail: vuongdatminh@gmail.com Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20 Trang | 7 HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HUẤN CAO TRONG TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ Mở bài: +Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà +Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên. Thân bài: +Huấn Cao là một anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ. +Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời. +Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn. +Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”. +Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta - ngươi", miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên tr
Tài liệu đính kèm: