Chuyên đề Một số phương pháp dạy học tích cực và phương pháp dạy học các tiết luyện tập

Thực hiện Thông tư số 31/2011/TT- BGDĐT, ngày 08 tháng 8 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên; Căn cứ công văn 1792/SGDĐT- GDCN-TX ngày 19/9/2014 của Sở GDĐT về việc bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên năm học 2014 - 2015. Nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên, nâng cao mức độ đáp ứng với yêu cầu phát triển giáo dục trung học cơ sở và yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở. Năm học 2014-2015, Sở GD và ĐT Quảng Bình tiếp tục lựa chọn lựa chọn và biên soạn chương trình bồi dưỡng thường xuyên (nội dung bồi dưỡng 2) với 02 chuyên đề: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC và PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC TIẾT LUYỆN TẬP trong chương trình Toán THCS.

 Mục tiêu của đợt bồi dưỡng thường xuyên lần này là giúp giáo viên nắm được một số phương pháp dạy học tích cực, đồng thời củng cố, bổ sung kiến thức về Phương pháp dạy học các tiết luyện tập, từ đó trong sinh hoạt tổ chuyên môn của các nhà trường, cụm chuyên môn của các Phòng Giáo dục tiến hành trao đổi, xây dựng, thống nhất cách dạy các tiết dạy luyện tập cụ thể trong chương trình toán THCS phù hợp với thực tiễn của nhà trường nhằm năng cao chất lượng dạy học các tiết luyện tập nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung.

 Hình thức tổ chức và thời lượng thực hiện chương trình bồi dưỡng theo hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo trong Công văn số 1792/SGDĐT- GDCN-TX ngày 19/9/2014 của Sở GDĐT.

 

doc 47 trang Người đăng phammen30 Lượt xem 810Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Một số phương pháp dạy học tích cực và phương pháp dạy học các tiết luyện tập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệc làm của các vai diễn. 
· Cách tiến hành có thể như sau : 
+Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai
+Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai 
+Các nhóm lên đóng vai 
+Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai 
- Vì sao em lại ứng xử như vậy ? 
- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách ứng xử ( đúng hoặc sai ) 
+Lớp thảo luận, nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp ? Chưa phù hợp ở điểm nào ? Vì sao ? 
+Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống. 
· Những điều cần lưu ý khi sử dụng :
+Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại 
Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai 
Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề 
Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia
Nên hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai. 
e. Phương pháp động não 
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. 
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận. 
Cách tiến hành 
Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm
Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt 
Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to, không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp 
Phân loại ý kiến
Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.
4. Điều kiện áp dụng phương pháp dạy học tích cực
a. Giáo viên: Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.
b. Học sinh: Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế
c. Chương trình và sách giáo khoa: Phải giảm bớt khốilượng kiến thức nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt những thông tin buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài toán nhận thức để học sinh tập giải; giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí thông minh; giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để học sinh tự nghiên cứu phát triển bài học.
d. Thiết bị dạy học
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
Trong qúa trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã chú ý lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu cầu để có thể phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Những yêu cầu này rất cần được các cán bộ chỉ đạo quản lý quán triệt và triển khai trong phạm vi mình phụ trách. Cụ thể như sau:
- Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, thực tế và đạt chất lượng cao, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá kiến thức thông qua hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong quá trình học tập.
- Đảm bảo để nhà trường có thể đạt được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, đó là những thiết bị thực sự cần thiết không thể thiếu được. Các nhà thiết kế và sản xuất thiết bị dạy học sẽ quan tâm để có giá thành hợp lí với chất lượng đảm bảo.
- Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự tiến hành các bài thực hành thí nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp phần làm phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần được quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở.
- Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được sử dụng chung. Nhà trường cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào điều kiện cụ thể của trường đề ra các quy định để thiết bị được giáo viên, học sinh sử dụng tối đa.
Cần tính tới việc thiết kế đối với trường mới và bổ sung đối với trường cũ phòng học bộ môn, phòng học đa năng và kho chứa thiết bị bên cạnh các phòng học bộ môn.
e. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục của môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục tiêu được xác định.
- Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả qúa trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này.
- Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn - mặt bằng về nội dung học vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.
g. Trách nhiệm quản lý: Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp về việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường mình, đặt vấn đề này ở tầm quan trọng đúng mức trong sự phối hợp các hoạt động toàn diện của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng, ủng hộ, khuyến khích mỗi sáng kiến, cải tiến dù nhỏ của giáo viên, đồng thời cũng cần biết hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học tích cực thích hợp với môn học, đặc điểm học sinh, điều kiện dạy và học ở địa phương, làm cho phong trào đổi mới phương pháp dạy học ngày càng rộng rãi, thường xuyên và có hiệu quả hơn.
Hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học ở trường phổ thông, học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.
5. Khai thác yếu tố tích cực trong các phương pháp dạy học truyền thống
Đối mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống, hay phải "nhập nội" một số phương pháp xa lạ vào qúa trình dạy học. Vấn đề là ở chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học hiện có, đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện dạy và học cụ thể.
Phương pháp thuyết trình là một trong những phương pháp dạy học truyền thống được thực hiện trong các hệ thống nhà trường đã từ lâu. Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương pháp thuyết trình là thông báo - tái hiện. Vì vậy, phương pháp thuyết trình còn có tên gọi là phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện. Phương pháp này chỉ rõ tính chất thông báo bằng lời của thầy và tính chất tái hiện khi lĩnh hội của trò. Thầy giáo nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông báo luồng thông tin tri thức đến học sinh. Học sinh tiếp nhận những thông tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
Như vậy, những kiến thức đến với học sinh theo phương pháp này gần như đã được thầy "chuẩn bị sẵn" để trờ thu nhận, sự hoạt động của trò tương đối thụ động. Phương pháp thuyết trình chỉ cho phép người học đạt đến trình độ tái hiện của sự lĩnh hội tri thức mà thôi. Do đó, theo hướng hoạt động hóa người học, cần phải hạn chế bớt phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện, tăng cường phương pháp thuyết trình giải quyết vấn đề. Đây là kiểu dạy học bằng cách đặt học sinh trước những bài toán nhận thức, kích thích học sinh hứng thú giải bài toán nhận thức, tạo ra sự chuyển hóa từ qúa trình nhận thức có tính nghiên cứu khoa học vào tổ chức qúa trình nhận thức trong học tập. Giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi học sinh tự mình giải quyết vấn đề đặt ra. Theo hình mẫu đặt và giải quyết vấn đề mà giáo viên trình bày, học sinh được học thói quen suy nghĩ lôgic, biết cách phát hiện vấn đề, đề xuất giả thuyết, thảo luận, làm thí nghiệm để kiểm tra các giả thuyết nêu ra.
Thuyết trình kiểu đặt và giải quyết vấn đề thuần túy do giáo viên trình bày cũng đã có hiệu quả phát triển tư duy của học sinh. Nếu được xen kẽ vấn đáp, thảo luận một cách hợp lý thì hiệu quả sẽ tăng thêm. Muốn vậy, lớp không nên quá đông, có điều kiện thuận lợi cho đối thoại, đồng thời học sinh phải có thói quen mạnh dạn bộc lộ ý kiến riêng trước vấn đề nêu ra. Như vậy, để kích thích tư duy tích cực của học sinh cần tăng cường mối liên hệ ngược giữa học sinh và giáo viên, giữa người nghe và người thuyết trình. Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi "có vấn đề" để học sinh trả lời ngay tại lớp, hoặc có thể trao đổi ngắn trong nhóm từ 2 đến 4 người ngồi cạnh nhau trước khi giáo viên đưa ra câu trả lời.
Để thu hút sự chú ý của người học và tích cực hóa phương pháp thuyết trình ngay khi mở đầu bài học giáo viên có thể thông báo vấn đề dưới hình thức những câu hỏi có tính chất định hướng, hoặc có tính chất "xuyên tâm". Trong qúa trình thuyết trình bài giảng, giáo viên có thể thực hiện một số hình thức thuyết trình thu hút sự chú ý của học sinh như sau:
- Trình bày kiểu nêu vấn đề: Trong qúa trình trình bày bài giảng giáo viên có thể diễn đạt vấn đề dưới dạng nghi vấn, gợi mở để gây tình huống lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
- Thuyết trình kiểu thuật chuyện: Giáo viên có thể thông qua những sự kiện kinh tế - xã hội, những câu chuyện hoặc tác phẩm văn học, phim ảnh làm tư liệu để phân tích, minh họa, khái quát và rút ra nhận xét, kết luận nhằm xây dựng biểu tượng, khắc sâu nội dung kiến thức của bài học.
- Thuyết trình kiểu mô tả, phân tích: Giáo viên có thể dùng công thức, sơ đồ, biểu mẫu để mô tả phân tích nhằm chỉ ra những đặc điểm, khía cạnh của từng nội dung. Trên cơ sở đó đưa ra những chứng cứ lôgíc, lập luận chặt chẽ để làm rõ bản chất của vấn đề.
- Thuyết trình kiểu nêu vấn đề có tính giả thuyết: Giáo viên đưa vào bài học một số giả thuyết hoặc quan điểm có tính chất mâu thuẫn với vấn đề đang nghiên cứu nhằm xây dựng tình huống có vấn đề thuộc loại giả thuyết (hay luận chiến). Kiểu nêu vấn đề này đòi hỏi học sinh phải lựa chọn quan điểm đúng, sai và có lập luận vững chắc về sự lựa chọn của mình. Đồng thời học sinh phải biết cách phê phán, bác bỏ một cách chính xác, khách quan những quan điểm không đúng đắn, chỉ ra tính không khoa học và nguyên nhân của nó.
- Thuyết trình kiểu so sánh, tổng hợp: Nếu nội dung của vấn đề trình bày chứa đựng những mặt tương phản thì giáo viên cần xác định những tiêu chí để so sánh từng mặt, thuộc tính hoặc quan hệ giữa hai đối tượng đối lập nhau nhằm rút ra kết luận cho từng tiêu chí so sánh. Mặt khác, giáo viên có thể sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so sánh rút ra kết luận nhằm góp phần làm tăng tính chính xác và tính thuyết phục của vấn đề.
- Hiện nay, bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều các phương tiện công nghệ thông tin, làm tăng sức hấp dẫn và hiệu quả. Trước đây, để minh họa nội dung bài giảng, giáo viên chỉ có thể sử dụng lời nói giàu hình tượng và gợi cảm kèm theo những cử chỉ, điệu bộ diễn tả nội tâm hoặc có thêm bộ tranh giáo khoa hỗ trợ. Ngày nay có cả một loạt phương tiện để giáo viên lựa chọn sử dụng như: máy chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa CD, phần mềm máy vi tính... Tiến tới mọi giáo viên phải có khả năng soạn bài giảng trên máy vi tính được nối mạng, biết sử dụng đầu máy đa năng để thực hiện bài giảng của mình một cách sinh động, hiệu qủa, phát huy cao nhất tính tích cực học tập của học sinh.
Chuyên đề 2: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC TIẾT LUYỆN TẬP
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN  
Các kiểu bài lên lớp trong dạy học môn Toán
	Căn cứ vào chức năng nổi bật ở mỗi bài, người ta phân biệt những kiểu bài học khác nhau: bài nội dung mới, bài ôn tập, bài luyện tập, bài thực hành. Trong chương trình Toán THCS, kiểu bài ôn tập có thể là bài ôn tập chương, ôn tập học kì, ôn tập cuối năm. 
	1.1.Kiểu bài nội dung mới 
	Kiểu bài này có hạt nhân là khâu: “làm việc với nội dung mới” được tổ hợp một cách linh hoạt với một số trong các khâu cơ bản khác của quá trình dạy học. 	Thông thường, các khâu của một bài nội dung mới là: 
Đảm bảo trình độ xuất phát (phục hồi tri thức, kỉ năng, kỉ xảo để học bài mới), 
Hướng đích và gợi động cơ (làm cho học sinh có ý thức về mục tiêu cần đạt và tạo được động lực bên trong thúc đẩy bản thân học sinh hoạt động để đạt mục tiêu), 
Làm việc với nội dung mới (tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của học sinh để họ kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được các mục tiêu khác của bài học, 
Củng cố (làm cho những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trở thành vững chắc, ổn định trong học sinh), 
Kiểm tra (nhằm thu thập thông tin về trình độ, kết quả học tập của học sinh ở những thời điểm nhất định), 
Hướng dẫn công việc ở nhà (gồm ra bài tập về nhà, hướng dẫn các nhiệm vụ khác như: học lí thuyết, thực hành, chuẩn bị bài mới).
1.2 Kiểu bài luyện tập
Kiểu bài này thường được tổ chức theo các khâu như:
Kiểm tra đánh giá ( kiểm tra kiến thức cơ bản của tiết trước và chữa một số bài tập đã cho về nhà dưới nhiều hình thức khác nhau; có thể kiểm tra kiến thức cũ có liên quan đến việc giải bài tập trong tiết luyện tập)
Luyện tập (lựa chọn một số bài tập tiêu biểu, hoặc chùm bài tập có liên quan để chữa, không nhất thiết giải chi tiết tất cả các bài mà có bài có thể giải vắn tắt) 
Hướng dẫn công việc ở nhà (gồm ra bài tập về nhà, hướng dẫn bài tập khó, ôn lí thuyết, chuẩn bị bài mới).
1.3 Kiểu bài thực hành
Kiểu bài thực hành thường được tổ chức theo các khâu:
Đảm bảo trình độ xuất phát (phục hồi tri thức để làm cơ sở cho việc vận dụng vào trong thực tế đo đạc, giải thích cơ sở cho việc tính toán sau khi đo đạc) 
Hướng dẫn học sinh tiến hành đo đạc, tính toán. (giáo viên hướng dẫn cách sử dụng dụng cụ, cách đặt dụng cụ và cách đo, giáo viên có thể làm mẫu cho học sinh)
Học sinh tiến hành đo đạc ( theo tổ hoặc nhóm tùy theo số lượng mỗi lớp và số lượng dụng cụ)
Học sinh viết báo cáo thực hành (theo mẫu giáo viên đã hướng dẫn)
Hướng dẫn công việc ở nhà (ôn lí thuyết, chuẩn bị bài mới).
1.4 Kiểu bài ôn tập 
	Kiểu bài này có thể bao gồm các khâu cơ bản sau (không phải tiết ôn tập nào cũng phải bao gồm các khâu như thế)
Hệ thống hóa (hệ thống hóa các kiến thức cơ bản, trọng tâm của chương)
Luyện tập (rèn luyện kĩ năng giải các bài tập vận dụng các kiến thức đã học của chương, hệ thống, phân loại và tổng hợp các phương pháp giải bài tập cho học sinh)
Hướng dẫn công việc ở nhà (gồm hướng dẫn học sinh ôn lại lí thuyết, ra bài tập về nhà, hướng dẫn bài tập khó, chuẩn bị bài kiểm tra - nếu sau tiết ôn có bài kiểm tra).
Các nội dung về kiểu bài luyện tập
Vai trò, ý nghĩa của tiết luyện tập
	 Tiết luyện tập toán có một vị trí hết sức quan trọng trong quá trình dạy học toán trong chương trình giáo dục phổ thông. Nếu như tiết lý thuyết cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản ban đầu thì tiết luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản đó, nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể, làm cho học sinh nhớ và khắc sâu hơn những vấn đề lý thuyết đã học, học sinh được củng cố tri thức, kĩ năng một cách có định hướng và có hệ thống dưới sự tổ chức điều khiển của giáo viên. Quan trọng hơn là trong tiết luyện tập học sinh có điều kiện thực hành vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải các bài toán cụ thể, qua đó có tác dụng rèn luyện kỹ năng tính toán, kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn các thao tác tư duy để phát triển năng lực sáng tạo sau này.
Hoạt động chủ yếu trong tiết luyện tập là hoạt động dạy học giải toán. Việc giải toán có nhiều ý nghĩa:
- Đó là hình thức tốt nhất để củng cố, đào sâu, hệ thống hóa kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Trong nhiều trường hợp giải toán là hình thức tốt để dẫn dắt học sinh tự mình đi đến kiến thức mới.
- Là một hình thức vận dụng những kiến thức đã học vào những vấn đề cụ thể, thực tiễn.
- Là hình thức tốt nhất để giáo viên kiểm tra học sinh và học sinh tự kiểm tra về năng lực, mức độ tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học.
- Việc giải toán có tác dụng lớn gây hứng thú học tập cho học sinh, phát triển trí tuệ và giáo dục, rèn luyện con người học sinh về rất nhiều mặt.
	Luyện tập là một trong bốn hình thức củng cố kiến thức (luyện tập, đào sâu, ứng dụng, hệ thống hóa và ôn), trong thực tế khi dạy học tiết luyện tập nhiều khi cân phối hợp các hình thức củng cố đồng thời nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Mục tiêu của tiết luyện tập
	Luyện tập nhằm mục tiêu rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo không chỉ đối với tính toán mà còn cả đối với dựng hình, vẽ đồ thị hàm số, giải phương trình và hệ phương trình, bất phương trình, sử dụng thước, compa, máy tính, Mục tiêu chung của tiết luyện tập:
	- Một là, học sinh được hoàn thiện, nâng cao ở mức độ phổ thông cho phép đối với phần lý thuyết của tiết học trước hoặc một số tiết học trước thông qua một hệ thống bài tập (gồm các bài tập trong SGK, SBT hoặc các bài tập tự sáng tạo của giáo viên tuỳ theo chủ ý của mình) đã được sắp xếp hợp lý theo kế hoạch lên lớp.
	- Hai là, rèn cho học sinh các kỹ năng giải toán, hình thành thuật toán dựa trên cơ sở nội dung lý thuyết toán học đã học và phù hợp với trình độ tiếp thu của đại đa số học sinh của một lớp học thông qua một hệ thống câu hỏi, bài tập hoặc một chuyên đề về các bài tập đã được sắp xếp theo chủ ý của giáo viên. Thực chất là vận dụng lý thuyết để giải hệ thống bài tập nhằm hình thành một số kỹ năng cần thiết cho học sinh mà các kỹ năng này được dùng nhiều trong bài tập và thực tiễn.
	- Ba là, thông qua phương pháp và nội dung của tiết học ( hệ thống các bài tập của tiết học ) rèn luyện cho học sinh nề nếp làm việc có tính khoa học, học tập tích cực, chủ động sáng tạo trong phương pháp tư duy và các thao tác cần thiết.
	Tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng tiết học và đặc điểm của phân môn học ( Số học - Đại số - Hình học ) mà trong từng tiết luyện tập nổi lên yêu cầu trọng tâm.
Nội dung của một tiết luyện tập
	Nội dung của một tiết luyện tập thường là:
Kiểm tra kiến thức cơ bản của tiết trước. Chữa hợp lí một số bài tập đã cho về nhà ở tiết trước dưới nhiều hình thức (Chữa toàn bài trên bảng, chữa một phần trên bảng, chỉ kiểm tra đáp số, giải một bài tương tự,.)
Chọn giải tại lớp một số bài tập tiêu biểu.
Rút ra các bài học về vận dụng kiến thức đã học, phương pháp giải toán, phương pháp suy luận.
	Trong môn Toán, có rất nhiều bài toán chưa có hoặc không có thuật toán để giải, đối với những bài toán này, có thể hướng dẫn học sinh cách suy nghĩ, tìm tòi lời giải. Phương pháp tìm tòi lời giải của Polya thường được tiến hành theo 4 bước:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài toán:
Đặt các câu hỏi để học sinh hiểu nội dung của đề bài: Điều cho biết, điều phải tìm. Cố gắng viết tóm tắt đề bài bằng ngôn ngữ toán học và sử dụng các kí hiệu toán học.
Nhắc lại các kiến thức có liên quan đến bài toán, tìm mối liên hệ giữa điều đã cho và điều phải tìm.
Phân tích điều phải tìm để tìm phương hướng đi đến đích của bài.
Bước 2: Tìm tòi lời giải
 Cùng với học sinh phân tích, dự đoán, liên hệ đến các bài toán đã giải,  để tìm ra cách giải quyết bài toán.
Đặt câu hỏi giải thích cơ sở lí luận của các biến đổi, củng cố các kiến thức được vận dụng trong bài.
	Bước 3: Trình bày lời giải:
	Uốn nắn, sửa chữa để đưa ra cách trình bày hợp lí cho lời giải của bài toán.
	Bước 4: Nghiên cứu thêm về lời giải.
Kiểm tra kết quả. Xem lại các lập luận.
Nhìn lại toàn bộ các bước giải. Rút ra phương pháp giải một loại toán nào đó. Rút ra các kinh nghiệm giải toán. 
Tìm thêm các cách giải khác. 
Khai thác thêm các kết quả có thể có được của bài toán, đề xuất các bài toán tương tự, bài toán đặc biệt, bài toán tổng quá

Tài liệu đính kèm:

  • docTOAN THCS.doc