I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển kéo rất nhiều thứ thay đổi trong đó có giáo dục. Một xu thế tất yếu của nền giáo dục nước ta là phải thay đổi hình thức giáo dục để tạo ra một lớp người mới năng động, tự tin, làm chủ chính mình và biết hợp tác. Trên thế giới việc thay đổi phương thức giáo dục đã diễn ra từ lâu và mang lại nhiều thành công. Hình thức giáo dục mới này chuyển từ cách dạy học truyền thống thầy dạy trò nghe, ghi chép thụ động sang hình thức giáo dục hiện đại trò làm việc trải nghiệm chiếm lĩnh kiến thức, thầy quan sát giúp đỡ. Nổi bật ở hình thức dạy học này còn là cách tổ chức chỗ ngồi, học sinh được ngồi theo nhóm, được tự do thảo luận đưa ra ý kiến của mình.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong thời kỳ hội nhập, thì giáo dục nước ta không ngừng được đổi mới và lần đổi mới này là bước tiến quan trọng trong cải cách giáo dục. Một trong những sự đổi mới mang tính cách mạng về cách dạy và học của nước ta chính là đưa mô hình trường học mới vào trường phổ thông.
Bắt đầu từ năm học 2011 – 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai mô hình trường học mới đối với cấp tiểu học. Năm học 2014 – 2015, triển khai thí điểm thành công đối với cấp THCS ở 6 tỉnh. Năm học 2015 – 2016 nhân rộng ra khắp các tỉnh và thành phố trong cả nước. Trường THCS Đồng Nai là trường đầu tiên thực hiện giảng dạy theo mô hình trường học mới trong năm học 2015 – 2016 ở huyện Cát Tiên.
để làm nảy sinh kiến thức mới. Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với học sinh. Nếu là tình huống diễn tả bằng lời văn, thì câu văn phải đơn giản, gần gũi với học sinh. Có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng học sinh. Trong một bài học Toán 6 theo mô hình trường học mới, bước 2 này chính là phần chuyển tiếp giữa hoạt động và và cả trong suốt hoạt động . Ở đây ta hiểu “trải nghiệm” là thông qua những tình huống phát sinh thực tiễn dẫn đến những nhu cầu mới, kiến thức mới. Ví dụ 1: - Trong “§1: Tập hợp. Phần tử của tập hợp” thì hoạt động trò chơi “Thu thập đồ vật” là một hoạt động trải nghiệm cho kiến thức mới về tập hợp. - Trong “§2: Tập hợp các số tự nhiên” thì trò chơi “1. Đố bạn viết số” và bài tập “2. Thực hiện các hoạt động” là hoạt động trải nghiệm về tập hợp chỉ có các số tự nhiên, từ đó đặt ra câu hỏi “Tập hợp đó là gì? Tên gọi? Kí hiệu?” - Trong “§4: Số phần tử của một tập hợp. Tập hợp con” thì bài toán “tìm số tự nhiện x biết x + 5 = 2” là một trải nghiệm bài toán thực tế mà không có đáp số, từ đó đặt ra câu hỏi “vậy những phần tử x này là cái gì? Gọi nó thế nào? Kí hiệu ra sao?” Ví dụ 2: Đối với môn hình học 6 thì hoạt động trải nghiệm thường dễ nhận biết thông qua các yêu cầu “Thực hiện các hoạt động sau” như: Quan sát và nhận xét, Đọc và làm theo, em vẽ, em viết, 1.1.3. Bước 3: Phân tích, khám phá – Rút ra bài học Là quá trình xem xét, nhìn nhận, tìm hiểu đối tượng, sự việc, phát hiện đặc điểm, ý nghĩa của chúng, trên cơ sở đó tìm tòi, khám phá ý tưởng mới. Đúc rút thành bài học, khái niệm, quy tắc lí thuyết hay thực hành mới. Kết quả cần đạt được ở bước 3: - Rút ra được kiến thức, khái niệm hay quy tắc lí thuyết, thực hành mới. - Nếu là một dạng toán mới thì học sinh phải nhận biết được dấu hiệu, đặc điểm và nêu được các bước giải dạng toán này. Cách làm: - Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học. - Có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm, hoặc các hình thức sáng tạo khác nhằm kích thích trí tò mò, sự ham thích tìm tòi, khám phá phát hiện của học sinh... Trong một bài học Toán 6 theo mô hình trường học mới, bước 3 này chính là hoạt động . Ở bước này giáo viên cố gắng nêu ra các câu hỏi từ bước 2 để học sinh có nhu cầu về tìm hiểu kiến thức mới và tìm hiểu nó. Đặc trưng để nhận biết ở bước 3 này chính là hoạt động “đọc kĩ nội dung sau” và các bài tập ngay sau đó. Ví dụ 1: Trong “§1: Tập hợp. Phần tử của tập hợp” – Sách HDH 6/Tr3 Chú ý: - Nên soạn những câu hỏi thích hợp giúp học sinh đi vào tiến trình phân tích thuận lợi và hiệu quả. - Vì học sinh học theo tiến độ cá nhân nên giáo viên không phải lo “chạy” giáo án, do đó cần giành một ít thời gian thích hợp để các em trong nhóm kiểm tra chéo nhau phần kiến thức mới. - Khuyến khích học sinh đặt câu hỏi tình huống đối với giáo viên hoặc với bạn để nâng cao khả năng tìm tòi, khám phá và nắm sâu kiến thức mới hơn. - Khi gặp có nghĩa bước 3 (trong tiết đang dạy) đã kết thúc, đây là lúc mà giáo viên cần chốt lại những kiến thức cần thiết của bài học. 1.1.4. Bước 4: Thực hành Ở bước này yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa tiếp thu được để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, qua đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào. Đây là những hoạt động như trình bày, luyện tập, bài thực hành, giúp cho các em thực hiện tất cả những hiểu biết ở trên lớp và biến những kiến thức thành kĩ năng. Kết quả cần đạt được ở bước 4: - HS nhớ dạng cơ bản một cách vững chắc; làm được các bài tập áp dụng dạng cơ bản theo đúng quy trình. - HS biết chú ý tránh những sai lầm điển hình thường mắc trong quá trình giải bài toán dạng cơ bản. Cách làm: - Thông qua việc giải những bài tập rất cơ bản để học sinh rèn luyện việc nhận dạng, áp dụng các bước giải và công thức cơ bản. Giáo viên quan sát giúp học sinh nhận ra khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện. - Tiếp tục ra các bài tập với mức độ khó dần lên phù hợp với khả năng của học sinh. Giáo viên tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ lại với các quy tắc, công thức, cách làm, thao tác cơ bản đã rút ra ở trên. Trong một bài học Toán 6 theo mô hình trường học mới, bước này là hoạt động . Ở bước này giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động cá nhân rồi đến hoạt động nhóm để các em học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn. Ví dụ: Trong “§9: Quy tắc dấu ngoặc” – Sách HDH 6/Tr129 Chú ý: - Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá nhân, hoặc theo nhóm, theo cặp đôi, theo bàn, theo tổ HS. - Các bài tập trong hoạt động luyện tập thường được thiết kế theo theo 3 mức: Thấp, trung bình, nâng cao. Tùy đối tượng học sinh mà giáo viên yêu cầu mức độ cần đạt được ngay tại lớp hoặc ra thêm bài tập để nâng cao hơn. 1.1.5. Bước 5: Vận dung Vận dụng điều đã học để giải quyết các tình huống trong thực hành, giải thích các hiện tượng trong cuộc sống hoặc thay đổi cách làm cũ. Kết quả cần đạt được ở bước 5: - Học sinh củng cố, nắm vững các nội dung kiến thức trong bài đã học. - Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt trong những tình huống gắn với thực tế đời sống hàng ngày. - Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới . Cách làm: - Học sinh thực hành, vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức cơ bản của nội dung bài đã học. - Giáo viên giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của các tri thức toán học, từ đó khắc sâu kiến thức đã học. - Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính các em, tập phát biểu, tập diễn đạt bước đầu có lí lẽ, có lập luận. Bước này là hoạt động và . Ở bước này giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động với sự trợ giúp của cộng đồng, cha mẹ, bạn bè, ... tất cả các nguồn học liệu mà các em có thể tìm được như sách báo, internet, .. Kết quả của bước này sẽ được các em chia sẻ với nhau và báo cáo với thầy cô của mình. Ví dụ: Trong “§2: Ba điểm thẳng hàng” – Sách HDH 6/T1/Tr165 Chú ý: - Tuy không yêu cầu các em phải hoàn thành hết tất cả các hoạt động này, nhưng giáo viên nên khuyến khích và động viên các em để nhằm mục đích rèn luyện và hình thành dần kĩ năng sống. 1.1.6. Một số lưu ý khi giảng dạy - Có thể hiểu “Quy trình 5 bước lên lớp” chính là phương pháp dạy học “bàn tay nặn bột” được áp dụng vào trường hợp giảng dạy cụ thể là môn Toán. Quy trình dạy học 5 bước và 5 hoạt động trong sách chỉ mang tính tương đối, cho nên kế hoạch bài dạy cần phải được thiết kế linh hoạt và thực hiện mềm dẻo trong quá trình dạy học. Ở bước 4 và bước 5 xét trong phạm vi tổ chức một tiết/bài dạy, cũng có thể chia hai bước này cùng lúc với 3 hoạt động C, D, E. - Các hoạt động có thể kết hợp với nhau hoặc bớt đi một, hai hoạt động tùy đặc trưng của bài dạy, nhưng hoạt động có tính chất vui chơi, vận động không nên bớt đi mà cần sắp xếp thời gian thêm vào trong mỗi tiết dạy. Nếu bài dạy có 2 tiết dạy liền nhau thì nên có thời gian vui chơi giữa 2 tiết. - Trong tài liệu hướng dẫn học, ở mỗi bài học, các hoạt động học tập đều được chỉ dẫn cụ thể và chi tiết, nên cần rèn luyện kĩ năng cho mỗi học sinh, luôn ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hoạt động học tập như thế nào, không cần chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên. 1.2. Quy trình 10 bước học tập của học sinh theo mô hình trường học mới Bước 1. Chúng em làm việc nhóm (nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng). Bước 2. Em đọc tên bài học và viết vào vở. Bước 3. Em đọc mục tiêu bài học. Bước 4. Em thực hiện hoạt động cơ bản ( nhớ xem làm việc cá nhân hay theo nhóm theo lôgô trong tài liệu). Bước 5. Kết thúc HĐ cơ bản, em tự đánh giá rồi báo cáo những việc đã làm được với thầy, cô giáo để thầy, cô xác nhận. Bước 6. Em thực hiện hoạt động thực hành (Làm việc cá nhân rồi chia sẻ với bạn kề bên, với cả nhóm). Bước 7. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo. Bước 8. Em thực hiện Hoạt động ứng dụng (với sự giúp đỡ của gia đình, người lớn). Bước 9. Kết thúc bài, em viết vào Bảng đánh giá. Bước 10. Em đã học xong bài mới em phải ôn lại phần nào? Sơ đồ quy trình 10 bước học tập 2. Phương pháp dạy học theo nhóm 2.1. Các cách chia nhóm Trong thực tế thì có nhiều kiểu nhóm khác, tôi nêu ra 11 kiểu điển hình, cách chia và các hình thức chia các nhóm này. Cách chia như sau: 2.1.1. Nhóm đếm số: Muốn chia lớp thành n nhóm thì chia tổng số học sinh của lớp cho n để xác định số học sinh trong một nhóm. Ví dụ: Lớp có 30 học sinh, muốn chia thành 5 nhóm thì yêu cầu học sinh đếm 1,2,3,4;5;6. Yêu cầu những học sinh có số đếm là 1 thì về nhóm 1, những học sinh có số 2 về nhóm 2 Ưu điểm:Tốn ít thời gian, tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái, phong cách nhanh nhẹn, áp dụng được cho tất cả các môn học. 2.1.2. Nhóm biểu tượng: Biểu tượng có thể là: (con vật, cây cối, hình ảnh, các bông hoa ) Muốn chia lớp thành n nhóm thì bạn phải chuẩn bị n biểu tượng . Ví dụ: Lớp có 30 học sinh, muốn chia thành 5 nhóm theo biểu tượng là con vật, bạn phải chuẩn bị các con vật như: Chào mào, Vành khuyên, Thỏ ngọc, Sơn ca, Hoàng yến, Sóc nâu chẳng hạn. Mỗi con vật phải có 5 biểu tượng. Cho học sinh chọn các biểu tượng đó, rồi chia nhóm theo biểu tượng từng con vật hoặc nhóm có đủ 6 con vật. Ưu điểm: Tốn ít thời gian, tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái, lớp học sinh động, tạo cơ hội thể hiện sở thích của các em. Lớp học sôi nổi hứng thú cho tất cả học sinh. Nhược điểm: GV phải chuẩn bị nhiều, gây tốn kém. 2.1.3. Nhóm mã màu: Hình thức chia như nhóm biểu tượng. 2.1.4. Nhóm cặp đôi: Xếp 2 học sinh vào một cặp . 2.1.5. Nhóm sở thích: Những học sinh có cùng sở thích ngồi cùng một nhóm. “Những người cùng sở thích thì sự thống nhất sẽ cao hơn.” 2.1.6. Nhóm tương trợ: Xếp những học sinh có trình độ và năng lực khác nhau (khá giỏi và trung bình- yếu) vào một nhóm, để học sinh khá giỏi có thể hỗ trợ cho học sinh yếu. 2.1.7. Nhóm theo ghép hình: Cắt hình ra thành nhiều mảnh, cho học sinh nhận mỗi em mỗi mảnh sau đó ghép lại thành hình lúc đầu. Cách này ít khi sử dụng vì tốn nhiều thời gian cho một tiết học, chỉ thích hợp với các hoạt động ngoại khoá hay dạy học theo dự án. 2.1.8. Nhóm theo trình độ: Những học sinh cùng năng lực và trình độ sẽ ngồi một nhóm. Ưu điểm: Giáo viên có thời gian giúp đỡ, hỗ trợ những nhóm có trình độ yếu và phát huy tính tự lập cho nhóm khá giỏi. 2.1.9. Nhóm cùng tháng sinh: Nhóm này cũng ít khi sử dụng vì trong lớp đôi khi cùng tháng nhiều hơn khác tháng, gây mất cân bằng. Chỉ thích hợp khi mình có tổ chức Vui chơi 2.1.10. Cách chia nhóm ngẫu nhiên từ một hoạt động cụ thể: Trong quá trình dạy học, nếu tiết học nào đó mà học sinh nhàm chán, chúng ta muốn tổ chức cho học sinh một trò chơi “phá băng” từ trò chơi đó ta cũng có thể chia thành nhóm học tập mới. Cách làm: Người quản trò hô “đoàn kết –đoàn kết”. Cả lớp đáp “kết mấy – kết mấy” rồi đưa ra một con số (thường là số thành viên trong một nhóm) rồi kết thành vòng tròn, từ đó ta chia nhóm tiếp. Ví dụ: Giả sử lớp có 33 học sinh nhưng ta muốn chia lớp thành 5 nhóm thì ta hô “đoàn kết đoàn kết” “ kết mấy kết mấy”: “ kết 5 - kết 5” sẽ dư 3 HS, ta có thể bố trí ba học sinh này vào một nhóm thích hợp 2.2. Vai trò các thành viên trong nhóm Nhóm trưởng: Nhiệm vụ tổ chức, điều hành nhóm làm việc đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. Thư kí: Nhiệm vụ ghi chép, tổng hợp ý kiến. Các thành viên: Trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. Nguyên tắc nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng, ghi chép trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép, người nói phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo đa số. Nguyên tắc làm việc nhóm: Cá nhân -> Cặp đôi -> Nhóm -> Kiểm tra chéo. Lưu ý: Nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm cần thay đổi tạo nên sự tự tin trong khi làm việc nhóm. 3. Phương pháp tổ chức các hoạt động trò chơi Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau : 3.1. Thiết kế trò chơi học tập trong môn Toán: Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn Toán nói chung và môn Toán lớp 6 nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể đưa các trò chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau : + Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục + Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học + Trò chơi phải phù hợp với tâm lý học sinh lớp 6, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của lớp học. + Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú. + Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo + Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh 3.2. Cấu trúc của Trò chơi học tập: + Tên trò chơi + Mục đích: Xác định rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng nào. + Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi học tập. + Luật chơi: Chỉ rõ quy tắc của hành động chơi quy định đối với người chơi, quy định thắng thua của trò chơi. + Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi + Nêu cách chơi. 3.3. Cách tổ chức trò chơi Thời gian tiến hành: thường từ 5 - 7 phút - Đầu tiên là giới thiệu trò chơi : + Nêu tên trò chơi. + Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ quy định chơi. - Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi - Chơi thật - Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. - Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò...) 3.4. Một vài trò chơi điển hình Trò chơi: Hái hoa dân chủ (Áp dụng trong những tiết luyện ôn tập) - Mục đích : Rèn các kỹ năng tính toán, ôn tập kiến thức, kỹ năng giải toán. - Chuẩn bị : + Một cây cảnh, trên có đính các bông hoa bằng giấy màu trong có các đề toán. + Phần thưởng + Đồng hồ - Cách chơi: + Cho các em chơi trong lớp. Lần lượt từng em lên hái hoa. Em nào hái được hoa thì đọc to yêu cầu cho cả lớp cùng nghe. Sau đó suy nghĩ trong vòng 30 giây rồi trình bày câu trả lời trước lớp. Em nào trả lời đúng thì được khen và được một phần thưởng. + Tổng kết chung khen những em chơi tốt . Trò chơi : Rồng cuốn lên mây - Mục đích: Kiểm tra kỹ năng tính nhẩm của học sinh. - Chuẩn bị: Một tờ giấy viết sẵn các bài toán đã học. - Cách chơi : Một em được chỉ định làm đầu rồng lên bảng. + Em cất tiếng hát : "Rồng cuốn lên mây Rồng cuốn lên mây Ai mà tính giỏi về đây với mình" + Sau đó em hỏi : "Người tính giỏi có nhà hay không ?" - Một em học sinh bất kỳ trả lời : "Có tôi ! Có tôi !" - Em làm đầu rồng ra phép tính đó, ví dụ : "- 2 + 3 - 5 bằng bao nhiêu ?" - Em tính giỏi trả lời (nếu trả lời đúng thì được đi tiếp theo em đầu rồng). Cứ như thế em làm đầu rồng cứ ra câu hỏi và cuốn đàn lên mây. 4. Các phương pháp thường dùng khi dạy học 4.1. Phương pháp trực quan Phương pháp trực quan trong dạy học Toán nói chung và dạy học Toán 6 mô hình trường học mới nói riêng là phương pháp đặc biệt quan trọng, phương pháp này đòi hỏi nhóm trưởng tổ chức hướng dẫn các bạn hoạt động trực tiếp theo yêu cầu trong mỗi hoạt động, dựa vào đó nắm bắt được kiến thức kĩ năng. 4.2. Phương pháp gợi mở - vấn đáp Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà sử dụng một hệ thống câu hỏi để hướng dẫn giúp đỡ học sinh khi các nhóm không thể hoàn thành được kiến thức cho riêng mình. Giáo viên giúp học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước tiến dần đến kết luận cần thiết, giúp học tìm ra những kiến thức mới. 4.3. Phương pháp giảng giải minh hoạ Phương pháp giảng giải minh hoạ trong dạy học Toán là phương pháp dùng lời nói để giải thích tài liệu Toán, kết hợp các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích. Tuy nhiên với phương pháp này giáo viên cần điều hành nhóm trưởng rút ra kiến thức trong nhóm, nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. 4.4. Phương pháp thực hành luyện tập: Phương pháp thực hành luyện tập là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập các kiến thức kĩ năng của học sinh thông qua các hoạt động thực hành luyện tập. Hoạt động thực hành luyện tập chiếm hơn 50% tổng thời lượng dạy học ở lớp 6. Vì vậy phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong các tiết dạy như học kiến thức mới, trong các tiết ôn tập, luyện tập. Nhiệm vụ chủ yếu của dạy học thực hành luyện tập là củng cố kiến thức và kĩ năng cơ bản của chương trình, rèn luyện các năng lực thực hành, giúp học sinh nhận ra rằng: học không chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng. Tóm lại: Trong dạy học Toán 6 mô hình trường học mới, người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp phù hợp từng hoạt động bài học phù hợp với từng đối tượng học sinh, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng, hướng dẫn học sinh giải Toán, kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, dạy học dự án, hay trò chơi Toán học, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Toán 6 theo mô hình trường học mới. 5. Một số kĩ thuật tổ chức hoạt động học và tiến trình các bước lên lớp 5.1. Kĩ thuật tổ chức hoạt động học theo kí hiệu Sách hướng dẫn học Toán 6 được thiết kế theo một cấu trúc trình tự, mỗi hoạt động học đều được kí hiệu cách học: Trước khi bước vào một tiết học giáo viên yêu cầu nhóm trưởng kiểm tra các dụng cụ hỗ trợ học tập của các thành viên như giấy nháp, bút, thước kẻ, ... a. Hoạt động nhóm : Khi gặp kí hiệu này thì giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện bài tập theo nhóm theo nguyên tắc: Cá nhân -> Cặp đôi -> Nhóm chung. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng theo nguyên tắc trên mà tùy bài tập, thông thường thì cả nhóm thảo luận và thống nhất chung luôn, bỏ qua làm việc cá nhân và cặp đôi. Nếu hoạt động có nhiều bài tập thì nhóm trưởng chia cho các cặp để giải quyết riêng rồi sau đó thống nhất chung. Yêu cầu trong hoạt động này là: - Thư ký nhóm phải ghi kết quả thảo luận chung. - Nhóm trưởng phải đảm bảo các thành viên trong nhóm hiểu nội dung đang học. - Nhóm trưởng đưa bảng báo cáo và các nhóm phải cử người kiểm tra chéo kết qủa của nhau. b. Hoạt động cặp đôi : Khi gặp kí hiệu này thì nhóm trưởng chia cặp (2 hoặc 3 bạn) thảo luận. Yêu cầu của hoạt động này: - 2 bạn quay mặt lại với nhau cùng giải quyết bài tập (đổi vai cho nhau). - Từng cặp phải ghi kết quả chung của mình. - Nhóm trưởng kiểm tra kết quả lần lượt của các cặp. - Thư ký nhóm ghi thống nhất kết quả chung của từng nội dung hoạt động. - Nhóm trưởng đưa bảng báo cáo và các nhóm cử người kiểm tra chéo nhau. c. Hoạt động chung cả lớp : Thông thường đến hoạt động này giáo viên nên ngừng lớp học lại, yêu cầu tất cả học sinh chú ý vào nội dung hoạt động. Cách tổ chức hoạt động: - Giáo viên hoặc Chủ tịch HĐTQ mời 1 hoặc 2 bạn đọc nội dung hoạt động (thường đây là phần kiến thức mới cần ghi nhớ), tất cả học sinh phải chú ý vào nội dung không làm việc riêng. - Giáo viên giải thích thêm hoặc đặt thêm câu hỏi để làm rõ nội dung kiến thức. - Dành một ít thời gian để từng học sinh đọc lại thật kĩ nội dung. - Cho các em trong cùng nhóm hoặc khác nhóm kiểm tra chéo nhau phần kiến thức mới (nên khuyến khích đặt câu hỏi liên quan đến kiến thức mới hoặc cho ví dụ). Chú ý: - Thông thường hoạt động này là phần nội dung kiến thức mới được ghi trong khung và diễn ra ngay trong hoạt động B. Hình thành kiến thức. Nếu bài học có bao nhiêu kiến thức mới cần học thì sẽ có bây nhiêu hoạt động chung cả lớp. Trong sách thường là 1a, 2a, 3a, như hình dưới: - Vì học sinh học theo tiến độ, có nghĩa sẽ có nhóm chưa hoàn thành để đến hoạt động chung tiếp theo. Do đó giáo viên cần tìm cách đảm bảo tiến độ chung cho cả lớp để tránh phải trình bày cùng một nội dung kiến thức ở từng nhóm riêng lẻ. Thực tế, sách thiết kế hoạt động tiếp theo 1b, 1c, 2b, 2c, như hình: Thường thì đây là hoạt động cặp đôi hoặc nhóm với những bài tập không khó như phần luyện tập mà rất đơn giản bám sát kiến thức mới, nên rất dễ để đảm bảo tiến độ chung các nhóm. d. Hoạt động cá nhân : Cá nhân tự làm các bài tập rồi báo cáo kết quả với thầy/cô giáo. Sự phân hóa khả năng học sinh thể hiện rõ nhất trong hoạt động này. Lúc này là lúc mà giáo viên phải chú ý đến hai đối tượng là học sinh yếu và khá giỏi. Chú ý: - Mặc dù là hoạt động cá nhân để làm các bài tập nhưng giáo viên nên yêu cầu nhóm cùng tham gia vào bài tập và đảm bảo tiến độ chung theo cả nhóm. Hiểu “nôm na” là gắn tiến độ cá nhân là trách nhiệm chung của nhóm. - Phải rèn được ý thức “Cá nhân tự giác yêu cầu trợ giúp từ bạn, thầy cô”. - Vì thời gian tiết học hạn chế nên giáo viên không thể trợ giúp hết tất cả học sinh yếu, nên cần áp dụng chia các cặp hỗ trợ học tập để những em học lực khá giỏi hướng dẫn cho các bạn yếu hơn hoàn thành bài tập. - Cũng có thể bỏ qua thiết kế bài tập của sách mà chỉ chọn một vài bài đặc trưng nhất cho những bạn học yếu hoàn thành, phần còn lại về nhà các em hoàn thành tiếp. - Chuẩn bị các bài tập khó hơn cho các em học sinh khá giỏi (nếu thật sự cần). e. Hoạt động báo cáo: Có 3 lần báo cáo kết quả trong một bài học như sau: Sau hoạt động sẽ có: Lúc này là lúc giáo viên chốt lại phần lý thuyết là những kiến thức chính của bài học. Cần rèn cho học sinh cách trả lời và kiểm tra bằng cách bám vào mục tiêu bài học. Có nghĩa mục tiêu có bao nhiêu ý thì trả lời bấy nhiêu ý. Để khắc sâu hơn giáo viên có thể chuẩn bị nội dung này trên máy chiếu để chiếu cho học sinh nắm lại một lần nữa những vấn đề chí
Tài liệu đính kèm: