Đảng cộng sản và lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Câu 1. Đồng chí hãy phân tích những nguyên lý về Đảng kiểu mới của Lênin?

Một là, Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản: V.I.Lênin viết “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là 1 học thuyết chính xác. Nó là 1 học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta 1 thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ 1 sự mê tín nào, 1 thế lực phản động nào, 1 hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó

doc 27 trang Người đăng trung218 Lượt xem 1490Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đảng cộng sản và lịch sử đảng cộng sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cày nghèo. Đến cuối năm 1945, đầu năm 1946 nạn đói về cơ bản bị đẩy lùi, đời sống nhân dân bước đầu ổn định.
Để khắc phục khó khăn cho nền tài chính quốc gia, Chính phủ phát động “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập”,... nhân dân đã đóng góp được 370kg vàng và 60 triệu đồng.
Về văn hoá: Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới, xoá bỏ mọi nền văn hoá nô dịch của thực dân, phát triển phong trào bình dân học vụ để chống nạn mù chữ, diệt giặc dốt. Ngày 08/9/1945, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ. HCM nêu: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công việc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Hưởng ứng lời kêu gọi, hơn một năm sau cách mạng tháng 8/1945 đã có hơn 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Thắng lợi bước đầu của cuộc đấu tranh xây dựng, củng cố bảo vệ chính quyền cách mạng có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, văn hoá, xã hội. Đây là một trong những nhân tố chủ yếu đầu tiên để nhân dân tin vào Đảng và chính phủ.
Tiến hành kháng chiến chống thực dân pháp ở Nam bộ.
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam bộ, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Cuộc kháng chiến của nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn diễn ra vô cùng anh dũng. Để tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến. Bản chỉ thị của kháng chiến kiến quốc (25/11/1945) nêu rõ: “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”, khẩu hiệu vẫn là “dân tộc trên hết”, “tổ quốc trên hết”. Tháng 12/1945, Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam được thành lập.
Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
Để tránh đương đầu với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc, Đảng ta đã có những đối sách hoà hoãn thích hợp với từng kẻ thù. Để gạt mũi nhọn tiến công của kẻ thù vào Đảng, ngày 11/11/1945, Đảng ta tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút vào hoạt động bí mật, Đảng chỉ để lại một bộ phận công khai dưới danh nghĩa “hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”.
 Tạm hoà hoãn với Tưởng ở miền Bắc để tập trung chống Pháp ở miền Nam. Đảng và Chính phủ ta đứng đầu là CT.HCM đã mềm dẻo về thực hiện sách lược nhân nhượng trên nguyên tắc đó là:
Về kinh tế: ta cung cấp lương thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng, thoả mãn các nhu cầu tối thiểu về nhà ở, điều kiện sinh hoạt cho quân Tưởng, cho lưu hành đồng tiền quan kim trên thị trường.
Về chính trị: ta chấp nhận mở rộng thành phần chính phủ liên hiệp bằng việc chấp nhận dành 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt Cách tham gia không qua bầu cử.
Về quân sự: tránh mọi xung đột với quân đội Tưởng.
Hoà hoãn với thực dân Pháp, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Đầu năm 1946, các nước đế quốc dàn xếp, mua bán quyền lợi với nhau để cho thực dân Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay quân đội Tưởng. Ngày 28/02/1946, chính quyền Tưởng và thực dân Pháp ký hiệp ước Hoa – Pháp. Trước tình hình đó Đảng ta đã quyết định chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với Pháp, vì “vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người...”.
Ngày 06/3/1946, CT.HCM thay mặt Chính phủ ta ký với đại diện chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ về quan hệ Việt – Pháp.
Ngày 09/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Hoà để tiến”. Sau hiệp định sơ bộ, nhiều hoạt động trên mặt trận ngoại giao được đẩy mạnh nhằm đi đến một hội nghị chính thức.
Ngày 19/4/1946, Hội nghị trù bị diễn ra tại Đà Lạt nhưng thất bại do thực dân Pháp thiếu thiện chí.
Ngày 31/5/1946, Chủ tịch HCM và phái đoàn Việt Nam lên đường thăm chính thức Pháp. Hội nghị Việt – Pháp diễn ra tại Phôngtennơblô từ ngày 06/7 đến ngày 10/9/1946 nhưng cũng không thành do phía Pháp cố bám giữ lập trường thực dân.
Ngày 14/9/1946, Chủ tịch HCM ký với đại diện Pháp bản “Tạm ước” nhằm tiếp tục tìm giải pháp hoà bình cho cuộc xung đột Pháp – Việt.
Các nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau Tạm ước (14/9/1946) đều bị tư tưởng hiếu chiến của các thế lực thực dân phá bỏ. Đêm 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, sự hoà hoãn với thực dân Pháp chấm dứt.
Câu 7: Đồng chí hãy trình bày đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng và quá trình thực hiện đường lối đó trong thực tiễn cách mạng thời kỳ 1945 – 1954?
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
Ngày 19/12/1946, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch HCM đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cùng với Chỉ thị “toàn dân kháng chiến” (12/12/1946) và lời kêu gọi “toàn quốc kháng chiến” của CT.HCM đã thể hiện đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta. Giữa năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt bài đăng trên báo sự thật được tập hợp thành cuốn sách “kháng chiến nhất định thắng lợi”.
Đường lối kháng chiến của Đảng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xác định ngay từ đầu là “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.
Lực lượng cách mạng là huy động sức mạnh toàn dân tộc, các tầng lớp nhân dân tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam và các tổ chức quần chúng khác. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp “chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc”. Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Do tương quan lực lượng giữa ta và địch nên phương châm chiến lược của ta là “đánh lâu dài”. Để đánh lâu dài, ta phải dựa vào sức mình là chính.
Trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Đảng và CT.HCM luôn coi trọng việc bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối kháng chiến phù hợp với yêu cầu thực tế của từng giai đoạn lịch sử.
Sau khi thất bại trong âm mưu đánh nhanh thắng nhanh trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947, thực dân Pháp buộc phải thay đổi chiến lược bằng lấy chiến tranh, nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt; lập chính phủ bù nhìn, tăng viện trợ, thay tướng lĩnh,... Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Hội nghị Trung ương mở rộng từ ngày 15 đến 17/01/1948 đã đề ra những chủ trương mới: đánh mạnh vào hậu phương kẻ thù, đẩy mạnh việc phá hoại các âm mưu về chính trị, kinh tế, văn hoá của thực dân Pháp và chính phủ bù nhìn.
Về quân sự: lấy “du kích chiến làm căn cứ, vận động chiến làm phụ trợ”. Phát động rộng rãi chiến tranh du kích, đồng thời cũng phối hợp với nhân dân Cămpuchia và Lào đẩy mạnh kháng chiến.
Từ ngày 14 đến 18/01/1949, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu đã quyết định: sang năm 1949, phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc kháng chiến về mọi mặt, tích cực hơn, kịp thời hơn, với một nhịp độ nhanh hơn,...
Sang năm 1950, Đảng và Chính phủ ra tuyên bố về đường lối ngoại giao. Ngày 18/01/1950 Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tiếp đó, Liên Xô và một loạt các nước XHCN công nhận chính phủ ta và đặt quan hệ ngoại giao. Những thắng lợi ngoại giao trong giai đoạn này có ý nghĩa to lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Với thắng lợi toàn diện mà trọng điểm là chiến thắng trên mặt trận quân sự ở biên giới (9/1950), kế hoạch Rơve sụp đổ. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới.
Từ ngày 11 đến 19/02/1951 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tổ chức tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang. Đại hội đã nghe và thảo luận các văn kiện: Báo cáo chính trị; báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam; báo cáo về tổ chức và điều lệ Đảng cùng các báo cáo bổ sung về chính quyền dân chủ nhân dân, Mặt trận dân tộc thống nhất, quân đội, kinh tế tài chính,...
Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.. đồng thời các đảng bộ ở Lào và Campuchia thành lập Đảng riêng của mỗi nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã đánh dấu một bước trưởng thành lớn trong tư duy lý luận của Đảng về cách mạng, chiến tranh cách mạng, thổi vào cuộc kháng chiến một nguồn sinh lực mới.
Ngày 14/11/1951, thực dân Pháp tổ chức tấn công ra Hoà Bình âm mưu chia cắt con đường liên lạc Bắc – Nam và giành lại thế chủ động chiến lược. Nắm chắc âm mưu địch, Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 22-CT/TW về “nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hoà Bình của địch”. Trước sức mạnh tiến công liên tục, sáng ngày 23/02/1952 địch buộc phải rút khỏi thị xã Hoà Bình. Thắng lợi của cuộc phản công và tiến công trên mặt trận Hoà Bình đã làm thay đổi hẳn cục diện trên chiến trường chính Bắc Bộ. Quân Pháp phải chuyển sang thế phòng ngự bị động.
Sau thắng lợi của chiến dịch Hoà Bình, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở liên tiếp hai chiến dịch: Chiến dịch Tây Bắc (9/1952), chiến dịch Thượng Lào (4/1953). Sau những thất bại liên tiếp trên các chiến trường, tháng 5/1953 thực dân Pháp cử tướng Nava sang Đông Dương với hi vọng có thể cứu vớt danh dự cho nước Pháp. Được sự hậu thuẫn của Mỹ, Nava lập ra kế hoạch chiến tranh. Để đối phó với kế hoạch Nava, cuối tháng 9/1953 Bộ Chính trị đã họp bàn về chiến cuộc đông xuân 1953 – 1954. Hội nghị đã thảo luận, cân nhắc và đi đến nhất trí kế hoạch tác chiến với kế hoạch Nava.
Ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Bộ Chỉ huy mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy kiêm Bí thư Đảng uỷ mặt trận. Với tinh thần cả nước cho Điện Biên Phủ chiến thắng, với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Từ ngày 13/3 đến ngày 07/5/1954, sau 56 ngày đêm tiến công, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị tiêu diệt.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã chứng minh sự tài tình của Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối kháng chiến trong từng giai đoạn lịch sử. 
Câu 8: Đồng chí hãy trình bày ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1945 – 1954?
Ý nghĩa lịch sử:
Với ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và CT. Hồ Chí Minh đã tiến hành cuộc kháng chiến vĩ đại, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân cũ của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” được coi như là một “Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa” một bản anh hùng ca về truyền thống chống xâm lược của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Dân tộc VN tiếp tục viết nên những trang sử thần kỳ của thế kỷ XX dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Đó là trí tuệ và sức mạnh vĩ đại của một cộng đồng các dân tộc VN được hình thành, hun đúc từ trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc VN.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là bằng chứng sinh động về sự đúng đắn và khoa học của đường lối kháng chiến trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng HCM; khẳng định tính ưu việt của chế độ mới và sức sống mãnh liệt của cuộc kháng chiến vì đại nghĩa của cả một dân tộc, vì khát vọng độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mang ý nghĩa quốc tế sâu sắc: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân VN, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và CNXH trên thế giới”. Thắng lợi này đã đánh vào một “mắt xích” lớn trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế giới. Thắng lợi này còn tăng cường uy thế và ảnh hưởng của phong trào giải phóng dân tộc, của CNXH và các phong trào tiến bộ trên thế giới. CT HCM khẳng định: Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác – Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”. Đồng thời, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã cổ vũ, động viên và là tấm gương cho các dân tộc thuộc địa bị áp bức đang đấu tranh cho độc lập dân tộc trên thế giới.
Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Một là, đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, sáng tạo, kiên quyết phát động toàn quốc kháng chiến.
Hai là, quán triệt tư tưởng chiến lược đánh lâu dài, lấy nhỏ đánh lớn, phát huy sức mạnh của phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân.
Ba là, lãnh đạo tập hợp, động viên, tổ chức lực lượng toàn dân dưới nhiều hình thức phong phú, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
Bốn là, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng căn cứ địa hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến. Kết hợp chặt chẽ kháng chiến với xây dựng, xây dựng để kháng chiến.
Năm là, đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, Campuchia, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế.
Sáu là, coi trọng xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến.
Những thành công và kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp góp phần làm phong phú kho tàng lý luận cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng. Những thành quả đó rất hữu ích đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất tổ quốc sau này.
Câu 9: Phân tích đặc điểm, tình hình cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975 và làm rõ những nội dung cơ bản của đường lối cách mạng miền Nam được Đảng nêu ra tại Hội nghị lần thứ 15 BCH Trung ương (01/1959)?
Đặc điểm tình hình miền Bắc. Hoàn toàn được giải phóng, nhân dân bắt tay vào khôi phục kinh tế – văn hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm tình hình miền Nam. Thực dân Pháp đã chút bỏ toàn bộ trách nhiệm thi hành hiệp định Giơnevơ cho chính quyền Mỹ - Diệm. Vì vậy Mỹ – Diệm đã ngang nhiên, ngoan cố phá hoại những nội dung được ký kết trong hiệp định. Đế quốc Mỹ đã trở thành một đế quốc mạnh nhất thế giới tư bản lúc bấy giờ. Thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Đế quốc Mỹ muốn nhằm thực hiện âm mưu chiếm được miền Nam Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và tiến tới độc chiếm Đông Dương. Do vậy, Mỹ đã trực tiếp viện trợ cho nguỵ quyền Sài Gòn, thực chất là Mỹ đã từng bước biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới ở Đông Nam Á. Đặc điểm tình hình miền Nam lúc bấy giờ là đấu tranh đòi Mỹ – Diệm thi hành hiệp định Giơnevơ, nhiệm vụ cách mạng tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Đường lối cách mạng miền Nam.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chưa chấm dứt, Đảng ta đã nhận rõ âm mưu của Mỹ. Tại Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương (khoá II), Đảng ta nhận định: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính là trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.
Ngày 06/9/1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam, xứ ủy nam bộ được thành lập tháng 10/54 do đồng chí Lê Duẩn làm bí thư. Tháng 6/1956, đồng chí Lê Duẩn – ủy viên bộ chính trị, Bí thư xứ ủy nam bộ, đã dự thảo bản “đề cương CMVN ở MN”. Bản đề cương đã làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn CMMN. Đường lối cách mạng miền Nam là một trong những văn kiện quan trọng, góp phần vào sự hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng. Nhưng do điều kiện thực tế, chưa đề ra được những biện pháp cụ thể thúc đẩy tình hình CMMN.
Tháng 12/57, Tại HNghị lần thứ 13 BCH TW khóa II Đảng ta nhận định: “ta đồng thời chấp hành 2 chiến lược CM: DTDCND và CMXHCN”. 
Tháng 01/59, BCH TW họp HN lần thứ 15. Sau nhiều lần họp bàn, thảo luận, BCH TW Đảng đã ra nghị quyết về CM MN. Nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai, thực hiện độc lập DT thống nhất nước nhà.
Con đường phát triển của CMMN là: Khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Chủ trương thành lập 1 mặt trận DT thống nhất riêng cho MN, có cương lĩnh phù hợp nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ đấu tranh chống Mỹ và tay sai.
Nghị quyết HN lần thứ 15 BCH TW khóa II phản ánh đúng nhu cầu của LS, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đồng bào MN giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của CMMN. Trên cơ sở nghị quyết này, ĐH đảng lần thứ III (1960) đã bổ sung và hoàn chỉnh đường lối, phương pháp CMMN. Nghị quyết Đại hội nêu: “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng,..xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ và đánh đổ tập đoàn thống trị tay sai Ngô Đình Diệm...”
Đảng bộ Nam bộ và liên khu V đã quán triệt NQ hội nghị TW15 xuống tận cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa ở cơ sở đã diễn ra liên tục. Ngày 17/1/1960, nhân dân các xã trong huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre đồng loại nổi dậy diệt ác ôn, phá đồn bốt, đập tan bộ máy chính quyền của Mỹ-nguỵ ở cơ sở. Phong trào đồng khởi lan rộng ra các tỉnh Tây Ninh, Mỹ Tho, Tân An, Trà Vinh, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau, Châu Đốc, Long Xuyên, Sóc Trăng, Cần Thơ, Kiến Phong, Kiến Tường, đồng loạt nổi dậy làm chủ khoảng 2/3 số ấp, xã. Hầu hết các ban tề ấp, xã tan rã, tê liệt, vùng giải phóng ngày càng rộng lớn, liên hoàn với nhau. Đến cuối năm 1960, phong trào “Đồng khởi” về cơ bản làm tan rã bộ máy chính quyền của địch ở cơ sở nông thôn toàn miền Nam. 
Phong trào Đồng Khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chế độ Mỹ Diệm ở miền Nam. Những kết quả của phong trào đồng khởi đã làm cho đế quốc Mỹ ở vào tình thế lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó với cách mạng miền Nam. Phong trào đồng khởi trên thực tế đã chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Câu 10: Đồng chí hãy trình bày ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)?
Ý nghĩa Lịch sử:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975 được khẳng định là một trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 nêu rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”. Thắng lợi đó đã chấm dứt 117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp thống nhất tổ quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý luận Mác - Lênin và TT HCM. Đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ của ĐCSVN, là sự hiện thực hóa của sợi chỉ đỏ: kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH tạo nên xung lực cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc. Lý luận cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đ

Tài liệu đính kèm:

  • docDang_cong_san_va_nhung_van_de_Dang_cong_san_Viet_Nam.doc