Nỗi Oán Của Người Phòng Khuê
( Khuê Oán)
(Vương Xương Linh)
A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
1. Kiến thức
- Nắm được giá trị nghệ thuật và nội dung của bài thơ, hiểu được tâm trạng đau khổ, lẻ loi của người thiếu phụ có chồng đi chiến trận.
- Qua đó thể hiện tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa và khát khao hạnh phúc lứa
đôi.
2. Kĩ năng
- Củng cố kĩ năng đọc – hiểu một bài tứ tuyệt.
- Nâng cao khả năng tự học, tự đọc cho học sinh.
- Biết cách phân tích ngoại cảnh để làm nổi bật tâm trạng của nhân vật trữ tình
3. Thái độ
- Biết chia sẻ và cảm thông cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Biết phê phán, tố cáo chiến tranh phi nghĩa.
- Xây dựng thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học ngữ văn lớp 10.
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên
- Chuẩn bị giáo án bài giảng, SGK, SGV
- Chuẩn bị các đồ dùng hỗ trợ giảng dạy
2. Học sinh
- Chuẩn bị SGK, bài soạn
C. PHƯƠNG PHÁP – PHƯƠNG TIỆN
1. Phương pháp dạy học
- Đàm thoại, diễn giảng
- Vấn đáp
- Thảo luận nhóm
2. Phương tiện dạy học
Ngày soạn: 19/03/2017 Người soạn: Huỳnh Yến Nhi Nỗi Oán Của Người Phòng Khuê ( Khuê Oán) (Vương Xương Linh) MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT Kiến thức Nắm được giá trị nghệ thuật và nội dung của bài thơ, hiểu được tâm trạng đau khổ, lẻ loi của người thiếu phụ có chồng đi chiến trận. Qua đó thể hiện tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa và khát khao hạnh phúc lứa đôi. Kĩ năng Củng cố kĩ năng đọc – hiểu một bài tứ tuyệt. Nâng cao khả năng tự học, tự đọc cho học sinh. Biết cách phân tích ngoại cảnh để làm nổi bật tâm trạng của nhân vật trữ tình Thái độ Biết chia sẻ và cảm thông cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Biết phê phán, tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Xây dựng thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học ngữ văn lớp 10. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Giáo viên Chuẩn bị giáo án bài giảng, SGK, SGV Chuẩn bị các đồ dùng hỗ trợ giảng dạy Học sinh Chuẩn bị SGK, bài soạn PHƯƠNG PHÁP – PHƯƠNG TIỆN Phương pháp dạy học Đàm thoại, diễn giảng Vấn đáp - Thảo luận nhóm Phương tiện dạy học Phương tiện trực quan TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Ổn định lớp Kiểm tra bài cũ: Dạy bài mới Hoạt động 1: Giới thiệu bài mới GV: Chiến tranh là nỗi ám ảnh của mọi con người ở mọi thời đại, cho dù là chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa thì cũng đều phải được trả giá bằng máu và nước mắt của vô số người dân vô tội. Chính vì lẽ đó mà từ thời Đường đã xuất hiện thể thơ biên tái nói về chiến tranh loạn lạc, cuộc sống và tâm tình của người tướng sĩ. Bài “Nỗi oán của người phòng khuê” hay còn gọi là “Khuê oán” của Vương Xương Linh hôm nay chúng ta sẽ học cũng được xem là bài thơ thuộc về đề tài biên tái, điều đặc biệt ở bài thơ này là mặc dù nó không trực tiếp nói đến sự tàn khốc của chiến tranh nhưng vẫn thể hiện được tinh thần phản chiến. Để thấy được nét đặc sắc của bài thơ ta sẽ đi vào tìm hiểu tác phẩm: HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH NỘI DUNG BÀI DẠY Hoạt động 2: Nội dung bài học GV: hướng dẫn tìm hiểu chung: ? Qua phần tiểu dẫn SGK, hãy giới thiệu đôi nét về tác giả? ðHS trả lời dựa vào SGK => GV nhận xét và bổ sung: - Vương Xương Linh (698?-757), tự Thiếu Bá, là người Kinh Triệu, Trường An (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Ông là nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường. - Giới thiệu đôi nét về Trường An. - Sở trường Vương Xương Linh là thơ thất ngôn tuyệt cú. Phong cách thơ ông rất tinh tế, trang nhã, ý cảnh thâm thúy. - Hiện còn lưu giữ 186 bài thơ của ông. Thơ ông thường đề cập đến cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi sầu li biệt hận của người thiếu phụ khuê các, tình bằng hữu chân thành, trong sáng - Khái quát sơ lược lại bối cảnh lịch thời kì này. GV: giải thích nhan đề: - Bài thơ có nhan đề “Nỗi oán của người phòng khuê” “Oán”: giận, trách hận hoặc sự bất mãn. “Phòng khuê” là căn buồng của người phụ nữ và ở đây “Người phòng khuê” ý chỉ người phụ nữ có chồng đi chiến trận. - Có thể hiểu nhan đề là : nỗi trách hận của người phụ nữ có chồng đi chiến trận. ? Em hãy cho biết bài thơ thuộc thể thơ gì? ðHS trả lời: bài thư thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt => GV nhận xét giọng đọc Bài thơ thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt, thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1,2,4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối, tức là chỉ có 28 chữ trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Được ra đời vào thời kỳ nhà Đường, có nguồn gốc từ Trung Quốc. ? Đề tài bài thơ là gì? ðHS trả lời: khuê oán => GV nhận xét giọng đọc - Đề tài bài thơ là khuê oán. Nói về nỗi oán hờn của người khuê phụ. Thuộc - Chủ đề chiến tranh.Qua bài thơ thể hiện tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa. GV: cho HS đọc phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ.(chú ý bài thơ thuộc thể tứ tuyệt nên giọng trầm buồn, chậm rãi và sâu lắng, chú ý cách ngắt nhịp 2/2/3, 4/3) => GV nhận xét giọng đọc GV: cho HS phân tích bài thơ dựa vào phần phiên âm, dịch nghĩa, bản dịch thơ của Nguyễn Khắc Phi trong SGK. Chú thích tự đọc. GV: Nghệ thuật câu tứ của bài thơ rất độc đáo, chỉ trong 28 chữ nhưng đã thể hiện được cả quá trình diễn biến tâm trạng của người khuê phụ. Để biết sự chuyển biến tâm trạng ấy như thế nào ta sẽ đi vào II. Đọc hiểu văn bản. Đây là bài thơ tứ tuyệt nên sẽ có 4 câu khai-thừa-chuyển-hợp. Men theo mạch cảm xúc của bài thơ, ta sẽ phân tích bài thơ theo bố cục 2 phần ( 2 câu đầu và 2 câu cuối). Trước tiên ta sẽ phân tích hai câu đầu: GV: Các em cho biết, nhan đề bài thơ là khuê oán ? Vậy sao câu thứ nhất lại nói “Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu”? Sao lại phản đề như thế? ðHS trả lời: Chồng ra trận mà người thiếu phụ lại “không buồn” vì thời Thịnh Đường, Trung Quốc là một nước giàu mạnh và có lãnh thổ rộng lớn nhà Đường đã phái quân đội ra trấn thủ biên cương và nếu thuận lợi thì “mở mang bờ cõi”. Nhiều người ra biên cương với hi vọng lập công để được phong hầu. Bởi vậy, người thiếu phụ có chồng ra trận mà vẫn thanh thản, không biết buồn. => GV nhận xét và bổ sung: Thời Thịnh Đường, Trung Quốc là một nước giàu mạnh và có lãnh thổ rộng lớn. Nhà Đường phái quân đội ra trấn thủ biên cương và mở mang lãnh thổ. Hoàn cảnh ấy làm dấy lên tinh thần "kiến công lập nghiệp"ở đấng nam nhi. “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa"... người chồng này cũng vậy. Thời phong kiến ở Trung Quốc, theo lí tưởng trung quân thì thân nhân của họ đều ủng hộ việc lập chiến công, vì yên tâm với định lí đó mà ban đầu người thiếu phụ vẫn yên lòng để chồng đi chiến trận lập công. Mình sẽ ở nhà yên bề nội ứng. Hàn Dũ nói “ Thiếp không ra khỏi cửa, chàng muôn dặm viễn hành”. GV: Em hãy cho biết ? Hàng ngày, cuộc sống của người khuê phụ diễn ra những hoạt động nào? ðHS trả lời: nàng chải chuốt và lên lầu. => GV nhận xét và bổ sung: Vì vô tư nên hằng ngày, người khuê phụ vẫn làm công việc muôn thuở của phụ nữ khuê các là trang điểm và lên lầu đẹp (để dạo bước, để ngắm hoa, nhìn cảnh, nhìn trời...). GV: Em hãy ? So sánh từ “thướng thúy lâu” và từ “ bước lên lầu” trong bản dịch? ðHS trả lời => GV nhận xét và bổ sung: - “ Thướng” nghĩa là lên, “thúy lâu” là lầu thúy ( lầu các hoa lệ, thường chỉ khuê phòng), “ thướng thúy lâu” là lên lầu thúy. Lại dịch là “ bước lên lầu” thì có vẻ hơi phóng khoáng và chưa thể hiện được hết tính chất của căn lầu. - Đặt trong hệ thống không gian nghệ thuật thơ Đường, chúng ta thường thấy mỗi khi lên cao là mỗi khi con người có nỗi niềm tâm sự, để nhìn xa, và ta cảm nhận được hình như ở đây còn đang tiềm ẩn một một tâm lí nào đó khác với các sự yên tâm nên mới khiến người khuê phụ lên lầu cao, nhìn xa Khi xưa Dự Nhượng có nói: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, người con gái làm dáng vì kẻ yêu mình”. Mà nay xét trong hoàn cảnh người chồng đã đi chiến trận, vậy người khuê phụ trang điểm để ai ngắm? Vì lẽ đó mà nàng cảm thấy trống vắng. Ta cảm nhận được tác giả đã dùng cái vẻ “bất tri sầu” để che đậy cả một khối “sầu”. GV: Trong 2 câu đầu ? Em hãy cho biết, tác giả miêu tả không gian qua những từ ngữ nào? ðHS trả lời: người khuê phụ đang ở nhà của mình, qua từ “phòng khuê”và từ “thúy lâu” => GV nhận xét và bổ sung: - Trong câu đầu tác giả có nói “Khuê trung thiếu phụ”, khuê nghĩa là cửa nhỏ, là nơi phụ nữ ở; trung nghĩa là bên trong, ở giữa hoặc là đang. Tác giả miêu tả người đàn bà trẻ đang ở nơi (trong) phòng cuả mình. Hàng ngày nàng từ phòng của mình rồi đi lên lầu. - Bản dịch cũng diễn là “ thiếu phụ phòng khuê” về ý nghĩa thì chỉ tương đối đảm bảo chứ chưa xác đáng. GV:trong 2 câu đầu. ? Em hãy cho biết, tác giả miêu tả thời gian vào thời điểm nào? Qua từ nào? ðHS trả lời: thời gian vào mùa xuân, qua từ “ngày xuân”. => GV nhận xét và bổ sung: - “Xuân nhật” có nghĩa đen là ngày xuân, vậy đây chính là thời gian nghệ thuật là vào mùa xuân. Đồng thời trong văn cảnh nó mang hàm nghĩa chỉ sự trẻ trung, đầy xuân sắc, xuân tình của người khuê phụ. - Thanh xuân tuổi trẻ của nàng là những ngày bước lên lầu để trông ngóng tin chồng. GV: Các em thấy ở đây một bên là tư tưởng theo đuổi giấc mộng công hầu, ủng hộ chồng với tinh thần “ kiến công lập nghiệp” >< một bên là sự lạc lõng, cảnh “phòng không gối chiếc”của bản thân. Vậy thái độ vô tư, vui vẻ nếu là có thật thì cũng rất mong manh. Đó là tâm trạng chung của những người phụ nữ có chồng ra trận. GV: Chúng ta đã đi qua 2 câu đầu (tức là câu khai và câu thừa của bài tuyệt cú) mà vẫn chưa thấy được dấu hiệu của sự oán. Vậy để biết cái “oán” đó là cái oán như thế nào ta sẽ phân tích tiếp 2 câu còn lại. - Trong thơ tuyệt cú trọng tâm ý nghĩa là ở câu thứ tư, câu “kết”. Nhưng câu kết chỉ xuất thần trên cơ sở “bệ phóng” câu thứ ba. Vậy ta sẽ xét kĩ câu ba, để xem câu “chuyển” bài này đã đảm trách chức năng “bệ phóng” như thế nào ? - Qua câu thơ “ Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc” “ Đầu đường chợt thấy màu dương liễu” ? Em hãy cho biết, từ ngữ nào chỉ diễn biến tâm trạng của người khuê phụ? ðHS trả lời: từ ngữ chỉ diễn biến tâm trạng trong câu 3 là từ “chợt”, chợt là từ chỉ sắc thái. => GV nhận xét và bổ sung: - Người thiếu phụ “chẳng biết sầu” gặp sắc liễu xanh bên đường chợt giật mình hoảng hốt. Ở đây thi nhân đã rất tinh tế khi dùng từ “chợt” để đánh dấu sự chuyển biến đột ngột, vượt cấp trong nhận thức của người thiếu phụ vì khi dùng từ “chợt” = “hốt” là để diễn tả sự việc xảy ra thình lình, nó đột ngột trong cảm xúc mà ta không lường trước được. Sắc liễu khiến cho người thiếu phụ nhận ra mùa xuân của tự nhiên đã đến, nhưng mùa xuân của mình đã dần trôi đi. - Trong thơ Đường hình ảnh “ liễu” không chỉ là tín hiệu nghệ thuật để nhận biết thời gian của tự nhiên của đất trời. “ Liễu” còn chỉ thời gian của cuộc đời. “ Dương liễu sắc” đồng thời cũng là biểu tượng của li biệt. (Tại sao lại là màu của sự li biệt? là như thế này, vì trong tiếng Trung Quốc, chữ liễu và chữ lưu có âm đọc gần giống nhau. Người Trung Quốc xưa có một phong tục: Lúc chia tay, người ở lại bẻ một cành dương liễu tặng cho người ra đi để biểu thị niềm lưu luyến. Bởi vậy trong thơ cổ Trung Quốc, đặc biệt là trong thơ Đường, màu dương liễu, cành dương liễu hay động tác bẻ liễu là một hình ảnh ước lệ, tượng trưng cho sự li biệt - Người thiếu phụ thấy màu dương liễu liền gợi nhớ lại kỉ niệm với chồng trước kia. Nàng như bừng tỉnh, sao ta lại dễ dàng để cho chồng ra trận, vào chỗ chết để tìm công danh, ấn phong hầu làm chi khi vợ chồng tuổi còn xuân mãi phải phân li? “Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai về “ ( Lương châu từ-Vương Hàn). Khát khao về danh vọng sao sánh được với hạnh phúc lứa đôi. - “Sắc liễu” đã trở thành một phương tiện nghệ thuật chuyển tải tinh tế cảm xúc của con người. - GV: Trước khi “chợt thấy màu dương liễu” là sự vô tư, thanh thản. Mắt chạm phải màu li biệt nên tâm trạng lập tức thay đổi. “ Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu” ? Trong 2 câu cuối, tâm trạng người khuê phụ đã thay đổi như thế nào? ðHS trả lời: trước khi “chợt thấy màu dương liễu” là sự vô tư, thanh thản. Sau khi “ chợt thấy màu dương liễu” là nỗi hối hận. => GV nhận xét và bổ sung: Mắt chạm phải màu li biệt nên tâm trạng lập tức thay đổi “ Hối để chàng đi kiếm tước hầu”.Từ cái bản lề “ hốt” nàng chuyển sang “ hối”. Nàng nhận ra được chiến tranh là tai họa, nàng “hối hận” nàng tự trách mình, nàng oán trách số phận. Nàng hối hận khi để chồng đi kiếm tước hầu ở nơi chiến trận. Hối hận vì phải trả giá quá đắt cho giấc mộng công hầu. Thi nhân đã dùng từ “hối” để thể hiện rõ tâm trạng người thiếu phụ không những u sầu mà còn tiếc nuối trong sự đau khổ day dứt khi nhận ra điều lầm lỗi của mình. Nó còn đáng sợ gấp mấy lần cái từ “sầu”. GV: hãy cho biết ? Thế nào là “ kiếm tước hầu”? ðHS trả lời dựa vào SGK => GV nhận xét và bổ sung: Thời phong kiến, bề tôi lập được công lớn (thường là chiến công) thì được vua phong tước hầu. Ở đây, người chồng đi tìm kiếm tước hầu có nghĩa là đi ra trận lập công để được phong tước hầu. “Khuê oán” được sáng tác vào thời tịnh Đường, các cuộc chiến tranh phần lớn là để mở mang bờ cõi, nên mục tiêu của người chồng ở đây không phải là lí tưởng chính đáng. Nên sau sự “hối” của người khuê phụ là sự “oán”- oán cái ấn phong hầu, oán ghét chiến tranh phi nghĩa của con người thời nhà Đường. Chiến tranh là nguyên nhân của sinh li tử biệt, làm cho gia đình chia lìa, chồng xa vợ, cha mất con và hạnh phúc của con người trở thành một bóng dáng xa xôi. GV: Qua phân tích bài thơ, em hãy cho biết ý nghĩa bài thơ là gì? ðHS trả lời: “ Khuê oán” là bài thơ tiêu biểu cho tinh thầu phản đối chiến tranh phi nghĩa của nhân dân thời Đường, cũng là của toàn nhân loại. Nó nói lên ước vọng hòa bình, ước vọng hạnh phúc muôn thuở của con người trong mọi thời đại. => GV nhận xét và bổ sung Qua bài học cho thấy: Từ tâm trạng “ bất tri sầu” đến “ hốt”, “hối” là cả một quá trình thức tỉnh mang đậm chất nhân văn. Bài thơ như một bản cáo trạng tố cáo chiến tranh phi nghĩa của con người trong thời đại lúc bấy giờ. Hoạt động 3: Hướng dẫn HS tổng kết bài học: ? Sau khi phân tích xong, em có nhận xét gì về nội dung bài thơ? ? Những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ? GV: ngoài 2 bản dịch trong sgk thì ta còn có rất nhiều bản dịch khác, cô sẽ đọc thêm bản dịch của Ngô Tất Tố: Cô gái phòng the chửa biết sầu Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu Hối để chồng đi kiếm tước hầu. (Ngô Tất Tố) Tìm hiểu chung 1.Tác giả - Vương Xương Linh (698?-757), tự là Thiếu Bá, quê ở Trường An, Trung Quốc. - Ông là nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường - Hiện còn lưu giữ 186 bài thơ của ông, đặc sắc nhất là thể thơ tứ tuyệt. - Thơ ông rất tinh tế, trang nhã, ý cảnh thâm thúythường đề cập đến cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi sầu li biệt hận của người thiếu phụ khuê các, tình bằng hữu chân thành, trong sáng 2. Tác phẩm -Nhan đề: Nỗi oán hờn, trách hận của người phụ nữ có chồng đi chiến trận. - Bài thơ thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt. -Đề tài bài thơ là khuê oán. -Qua bài thơ thể hiện tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa. II. Đọc hiểu văn bản 1.Hai câu đầu : - Người khuê phụ ủng hộ chồng với tinh thần “ kiến công lập nghiệp”. Nàng vô tư, thản nhiên chưa biết buồn là gì. -Vì vô tư nên hằng ngày, người khuê phụ vẫn trang điểm và lên lầu đẹp ngắm cảnh. - Đằng sau tâm trạng “bất tri sầu” là nổi trống vắng, cô đơn, lạc lõng. - Không gian: quẩn quanh ở chốn phòng khuê. -Thời gian là mùa xuân. “ Ngày xuân” chỉ sự trẻ trung của người khuê phụ. ðThái độ vô tư, vui vẻ nếu là có thật thì cũng rất mong manh. Đó là tâm trạng chung của những người phụ nữ có chồng ra trận. 2. Hai câu cuối -“Chợt” là từ đánh dấu sự chuyển biến đột ngột, vượt cấp trong nhận thức của người khuê phụ. Là “bản lề” của quá trình diễn biến tâm trạng, làm nàng hốt hoảng khi nhìn lại tuổi xuân của mình. -Màu dương liễu làm người thiếu phụ chợt hiểu ra được tử thần ẩn nấp đằng sau ấn phong hầu. -“Dương liễu sắc ” là một hình ảnh ẩn dụ, một hình ảnh ước lệ lấy cảnh để tả tình. -“Hối” là cảm thấy tiếc và băn khoăn, day dứt vì đã trót làm điều lầm lỡ. Nàng hối hận khi để chồng đi kiếm tước hầu ở nơi chiến trận. ðBài thơ như một bản cáo trạng tố cáo chiến tranh phi nghĩa của con người trong thời đại lúc bấy giờ. III. Tổng kết Vương Xương Linh đã mượn tâm trạng của người thiếu phụ để thông qua đó lên án chiến tranh phi nghĩa gây biết bao đau thương, mất mát cho nhân dân. Bằng bút pháp miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, cấu trúc ngôn ngữ ngắn gọn gợi nhiều hơn tả đã tạo nên bài thơ tứ tuyệt mang nội dung hàm xúc. Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh tự học và chuẩn bị bài mới Hướng dẫn học sinh tự học GV hướng dẫn HS tự học bằng cách củng cố nội dung chính của bài: ð Chỉ trong 28 chữ, bài thơ đã vẽ nên được hậu quả của chiến tranh phi nghĩa gây ra, đó là cảnh gia đình bị chia lìa, mất mát người thân. Hạnh phúc con người trở thành một bóng dáng xa xôinhất là khát khao hạnh phúc của người khuê phụ trẻ làm cho người đọc phải mủi lòng, bài thơ nói lên tâm trạng chung của nhiều số phận đồng thời thể hiện tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa. Chuẩn bị bài mới Học thuộc lòng bài thơ, ghi nhớ nội dung và ý nghĩa. Soạn bài Khe chim kêu ( Điểu minh giản) của Vương Duy. III.Rút kinh nghiệm
Tài liệu đính kèm: