Kiến thức trọng tâm Ngữ văn 12

A. KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁN G TÁM NĂM 1945 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX

I. VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1975

1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội

Văn học Việt Nam giai đoạn này tồn tại và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Chiến tranh ác liệt kéo dài 30 năm; miền Bắc xây dựng cuộc sống mới; giao lưu văn hoá bị hạn chế. Nền văn học vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Các chặng đường phát triển và thành tựu chủ yếu

2.1. Chặng đường 1945 - 1954

Ca ngợi Tổ quốc và quần chúng nhân dân.Văn học gắn bó sâu sắc với cuộc kháng chiến.

- Truyện ngắn và ký mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp: Một lần đến thủ đô của Trần Đăng, Đôi mắt của Nam Cao, Làng của Kim Lân Từ năm 1950 truyện và kí xuất hiện khá dày dặn, đạt giải thưởng: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài

 

doc 26 trang Người đăng trung218 Lượt xem 1411Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kiến thức trọng tâm Ngữ văn 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắt vầng trăng/ Long lanh trong đáy giếng
2.3. Nghệ thuật:
Bài thơ là một tác phẩm trữ tình nhưng có cấu trúc như một tác phẩm âm nhạc. Dòng thơ li-la li-la li-la kết hợp trực tiếp giữa thơ và nhạc tạo sự ngân vang mãi về sự bất tử của Lor-ca.
Nghệ thuật tượng trưng, siêu thực tạo sự lan tỏa, gợi mở với hình ảnh diễn đạt độc đáo, mới lạ, ấn. Bài thơ rất tiêu biểu cho thơ Việt Nam sau 1975.
VẤN ĐỀ 4 : ĐỌC HIỂU TRUYỆN, KÍ VIỆT NAM 1945 - 1975
A. CƠ SỞ TIẾP CẬN:
- Văn xuôi phát triển mạnh mẽ về thể loại, độc đáo về bút pháp, phong cách. Truyện ngắn nổi trội hơn cả.
- Tiểu thuyết không thuận lợi phát triển trong chiến tranh. Nhưng có một số tác phẩm để lại dấu ấn.
- Quan điểm nghệ thuật về con người: con người cộng đồng.
- Tiếp cận văn xuôi 1945 - 1975: chú ý đến giọng điệu sử thi, quan điểm về con người khác với trước đó 
B. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
I. VỢ NHẶT (TRÍCH) CỦA KIM LÂN
1. Kim Lân
- Kim Lân (1920 - 2007), là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Những sáng tác của Kim Lân thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người làng quê Việt Nam nghèo khổ nhưng tâm hồn trong sáng, lạc quan, thật thà.
- Tác phẩm: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)
2. Truyện ngắn Vợ nhặt
2.1. Hoàn cảnh sáng tác: Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí (1962), được viết dựa trên một phần tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
2.2. Nội dung
2.2.1. Bối cảnh câu chuyện
 Thảm họa nạn đói 1945: người sống bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, người chết như ngả rạ thây nằm còng queo bên đường, không khí vẩn mùi ẩm thối ... mùi gây của xác người. Xóm ngụ cư trong thảm họa đói như một bãi tha ma. Cái đói đã bộc lộ hết sức mạnh hủy diệt cuộc sống. Con người bị đẩy vào lằn ranh giữa sự sống và cái chết.
2.2.2. Người vợ nhặt
 Cái đói quay quắt đã ném thị vào đời sống vất vưởng. Đời sống vất vưởng đã biến thị thành một phụ nữ có ngoại hình tàn tạ. Thị đã theo không về làm vợ Tràng. Con người thật của thị thể hiện rõ khi về nhà. Người vợ nhặt vô danh nhưng không vô nghĩa, bóng dáng của thị không lộng lẫy nhưng gợi được sự ấm áp cho một gia đình đang bên lề cái chết.
2. 2.3. Nhân vật Tràng
Người lao động nghèo, tốt bụng,..luôn khao khát hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc.Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, anh nhận thấy không gian xung quanh thay đổi. Tràng thay đổi suy nghĩ, ý thức được trách nhiệm với vợ con, anh dự cảm một tương lai tươi đẹp cho cuộc đời của mình “Bỗng nhiên hắn thấytu sửa căn nhà”. Những thay đổi lớn trong tâm lí, tính cách của anh Tràng là biểu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống quên đi cái chết đang bủa vây.
2.2.4. Nhân vật bà cụ Tứ:
Bà cụ Tứmột bà mẹ nghèo nhưng giàu lòng nhân ái; đói khát đã khiến người ta phải sống, phải ăn thức ăn của loài vật (cháo cám) nhưng cái đói không hủy diệt được tình nghĩa và niềm hi vọng của con người
Tư tưởng: dù ở bên lề cái đói, cái chết, người ta vẫn khao khát hạnh phúc vẫn hi vọng ở tương lai”`
2.3. Những thành công về nghệ thuật
 Tạo tình huống truyện độc đáo; miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí, tính cách nhân vật tinh tế; cách kể chuyện hấp dẫn; sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giản dị nhưng chắt lọc giàu sức gợi.
II. VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI
1. Tô Hoài
- Tô Hoài (1920) quê Hà Nội, là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục, tập quán nhiều vùng khác nhau của đất nước, Văn ông có lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trãi, vốn từ vựng phong phú. Năm 1996 được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. .
- Tác phẩm: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941); Truyện Tây Bắc (tập truyện,1953); Miền Tây (tiểu thuyết, 1967)
2. Vợ chồng A Phủ
2.1. Hoàn cảnh ra đời 
Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập truyện Tây Bắc, là kết quả chuyến đi thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc
2.2. Nội dung
2.2.1. Nhân vật Mị
Cách giới thiệu nhân vật gợi nỗi đau đớn về thân phận con người: Mị xuất hiện bên cạnh tảng đá, tàu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra với hàng loạt công việc quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, cõng nước lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Thật ra, Mị đủ phẩm chất để sống cuộc sống ấm êm, hạnh phúc nhưng chỉ vì món nợ truyền kiếp của gia đình mà phải làm con dâu gạt nợ nhà thống lí.
Cuộc sống thống khổ, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống
- Lúc đầu Mị phản kháng: có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc và cả tìm cái chết.Về sau cuộc sống nô lệ đã biến Mị thành con người khác ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồiCam phận nô lệ vì tin rằng Nó đã bắt ta về trình ma cho nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Thông qua bi kịch cuộc đời Mị, Tô Hoài đã tố cáo bọn phong kiến miền núi đã lợi dụng hình thức cho vay nặng lãi và thế lực thần quyền (cúng ma) để trói buộc người nghèo vào số phận nô lệ triền miên.
Sức sống tiềm tàng và niềm khát khao hạnh phúc ở Mị
Mùa xuân về trên đất Hồng Ngài cùng với tiếng sáo đánh thức Mị: cô muốn đi chơi. Bị A Sử trói đứng Mị vừa sợ, vừa thổn thức bồi hồi. A Sử trói thể xác nhưng không trói được tâm hồn Mị. Càng bị đè nén, tâm hồn ham sống của Mị càng trỗi dậy, không sức mạnh nào hủy diệt được.
Sức phản kháng mạnh mẽ
Mị cởi trói cho A Phủ: Mị chợt xúc động khi thấy A Phủ khóc, trong tâm hồn Mị trào lên nỗi đồng cảm, thương cho thân phận của A Phủ. Dòng nước mắt của A Phủ đã giúp Mị thấy rõ thân phận nô lệ trong đó có mình. 
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của Mị, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định: không có bạo lực đen tối nào có thể vùi dập sức sống và niềm khao khát tự do của con người. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
2.2.2. Nhân vật A Phủ
Số phận éo le, là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi
Phẩm chất tốt đẹp: có sức khỏe, dũng cảm, yêu tự do, yêu lao động, có sức sống tiềm tàng.
2.2.3.Giá trị tác phẩm
Giá trị hiện thực Miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo; phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi
Giá trị nhân đạo Thể hiện tình yêu thương sự đồng cảm với thân phận đau khổ của ngưởi dân lao động miền núi; tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa tàn bạo của giai cấp thống trị; trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
2.3. Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng nhân vật; trần thuật uyển chuyển linh hoạt; nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, phong tục miền núi; ngôn ngữ sinh động chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ.
III. RỪNG XÀ NU CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH
1. Nguyễn Trung Thành
Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc), trong hai cuộc kháng chiến gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên. Những tác phẩm thành công của ông gắn với mảnh đất ấy.
2. Rừng xà nu
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965 khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miềm Nam với những chiến dịch càn quét rầm rộ. Truyện đăng trên tập chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ (số 2, năm 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2.2. Nội dung
2.2.1. Hình tượng cây xà nu. Nó đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống và tinh thần của dân làng Xô Man, tượng trưng cho phẩm chất và số phận của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh.
2.2.2. Hình tượng nhân vật Tnú :
- Gan góc, dũng cảm, mưu trí
- Tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
- Có trái tim yêu thương và sôi sục căm thù giặc.
- Cuộc đời bi tráng của Tnú và con đường đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng tỏ chân lí thời đại: Phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng, đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để giải phóng: Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo
2.2.3. Hình tượng cây xà nu và Tnú có quan hệ khắng khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những con người biết hi sinh như Tnú.
2.3. Nghệ thuật:
- Màu sắcTây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên, ở ngôn ngữ, tâm lí, hành động của các nhân vật.
- Khắc hoạ thành công hình tượng cây xà nu - một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc tạo nên màu sắc sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng cho thiên truyện; lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu.
- Xây dựng thành công các nhân vật vừa có nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất khái quát, tiêu biểu cho cộng đồng.
IV. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (TRÍCH) NGUYỄN THI
1. Nguyễn Thi
- Nguyễn Thi (1928-1968) là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Ông gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ và thực sự trở thành nhà văn của nông dân Nam Bộ. Nguyễn Thi cũng là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.
- Sáng tác Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Tập Truyện và kí (1978)
2. Những đứa con trong gia đình
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Thi được sáng tác tháng 2/1966, trong những ngày chiến đấu ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước năm 
2.2. Nội dung
- Chuyện kể lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt khi anh bị thương nặng, lạc đồng đội, nằm lại một mình ở chiến trường. Sau mỗi lần ngất rồi tỉnh, Việt hồi tưởng về những người thân yêu trong gia đình: ba má, chú năm, chị Chiếntính cách nhân vật cũng bộc lộ rõ
- Nhân vật Việt: Là một thanh niên mới lớn, hồn nhiên (giành phần hơn chị, thích bắt ếch, bắn chim, đi đánh giặc còn mang theo ná thun); có một tình yêu thương gia đình sâu đậm ( thương chị nên giấu chị, nghe lời chị mọi việc chỉ trừ việc đi đánh giặc);một tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu gan dạ kiên cường (quyết tâm đi bộ đội trả thù cho ba má, dũng cảm tiêu diệt xe tăng giặc). Trong anh có dòng máu của những người gan góc, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
- Chiến : Là cô gái mới lớn tính tình vẫn còn trẻ con nhưng cũng là người chị biết nhường em lo toan, tháo vát, sắp xếp việc nhà gọn gàng trước khi hai chị em đi bộ đội; Chiến vừa có những điểm giống mẹ, vừa có những nét riêng. Chị căm thù giặc sâu sắc (nếu giặc còn thì tao mất..), gan góc dũng cảm lập nhiều chiến công.
- Chiến và Việt là hai khúc sông trong dòng sông truyền thống của gia đình. Hai chị em là sự nối tiếp thế hệ của chú Năm và má, song lại mang dấu ấn riêng của thế hệ trẻ miền Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước.
2.3. Nghệ thuật
-Tình huống truyện:Kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch khi gián đoạn “của người trong cuộc” làm câu chuyện chân thật hơn, có thể thay đổi đối tượng, không gian thời gian đan xen tự sự và trữ tình
- Nghệ thuật trần thuật độc đáo, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí sắc sảo.
- Chi tiết được chọn lọc vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và mang sắc thái Nam Bộ.
V. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN TUÂN
1. Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân (1910 - 1987), sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Con người tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. 
- Sau Cách mạng Tháng 8, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Nguyễn Tuân sáng tác ở nhiều thể loại, đặc biệt thành công ở thể loại tùy bút với phong cách tài hoa, độc đáo.
- Tác phẩm chính: Vang bóng một thời (1940), Người lái đò sông Đà (1960)
2. Người lái đò sông Đà
2.1. Hoàn cảnh ra đời: Người lái đò Sông Đà là kết quả sau nhiều lần nhà văn đến Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi năm 1958; thực tiễn xây dựng cuộc sống mới vùng cao đem đến cảm hứng sáng tạo tập tùy bút Sông Đà (1960). Người lái đò Sông Đà là một trong 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân được in trong tập này.
2.2. Nội dung:
2.2.1. Hình ảnh sông Đà như một nhân vật có tâm hồn, tính cách, trạng thái vừa hung bạo vừa trữ tình.
- Tính chất hung bạo được tô đậm bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo: so sánh, nhân hóa gợi liên tưởng sâu sắc: Mặt nước hô la vang dậyđá trái, thúc gối vào bụngthuyền; ngôn ngữ giàu hình ảnh với đường nét gân guốc, bạo khỏe miêu tả thạch trận sông Đà rất ấn tượng: Nó bày thạch trận trên sôngbong ke chìm, pháo đài nổidòng nước hùm beo tế hồng hộcđánh đòn hiểm”; vận dụng ngôn ngữ của nhiều ngành (võ thuật, điện ảnh, quân sự, văn chương) tả tỉ mỉ, công phu, hấp dẫn thể hiện sự uyên bác, tài hoa. Con sông Đà hiện ra như là một loài thủy quái khổng lồ, hung tợn.
- Nguyễn Tuân còn phát hiện Sông Đà thơ mộng với dòng chảy uốn lượn đẹp như mái tóc trữ tình người thiếu nữ Tây Bắc, màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng, rất kì ảo. 
Cảnh vật hai bên bờ sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống: Thuyền tôi trôi trên sông Đà
- Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm của mình. Hình ảnh sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
2.2.2. Hình ảnh người lái đò được tác giả khắc họa độc đáo, là chân dung nghệ thuật hấp dẫn:
- Người lái đò có tư thế hiên ngang như một viên dũng tướng xông vào thạch trận oai phong, lẫm liệt. Chống chọi thác ghềnh cuồng bạo mà bình tĩnh, ung dung, xử lí tình huống thông minh, khéo léo: phối hợp mắt, tay, chângiữ chặt tay lái, cưỡi sóng như cưỡi hổvượt qua các cửa tử..vào cửa sinh khéo léo, tài hoa, tay lái mềm mại; anh dũng“nén vết thươngnắm quy luật thác đá. Sau khi vượt thác xong “chẳng bàn về chiến công”. Người lái đò anh hùng trên sông nước, người nghệ sĩ tài hoa vượt thác ghềnh, trí dũng song toàn đáng khâm phục.
- Nguyên nhân chiến thắng: sự ngoan cường, dũng cảm, kinh nghiệm sông nước à khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi lao động vinh quang.
- Hình ảnh người lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới:những người đáng trân trọng ngợi ca không thuộc tầng lớp đài các Vang bóng một thời mà là những người lao động bình thương – chất vàng mười của Tây Bắc.Người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
2.3. Đặc sắc nghệ thuật: 
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị
- Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; vận dụng kiến thức đa ngành trong miêu tả. 
 - Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình
VẤN ĐỀ 5 : ĐỌC – HIỂU TRUYỆN KÍ VIỆT NAM SAU 1975
A. CƠ SỞ TIẾP CẬN:
- Văn xuôi sau 1975 có nhiều thành tựu. Nhiều nhà văn khẳng định được phong cách độc đáo của mình. Trong đó Nguyễn Minh Châu là người “mở đường tài năng và tinh anh”.
- Đề tài mở rộng, tiếp cận đời sống ở phương diện đời tư thế sự.
- Đổi mới quan niệm nghệ thuật (nghệ thuật trần thuật), quan niệm về con người (con người cá nhân), hướng tới tinh thần nhân bản.
- Hiện thực được soi chiếu từ nhiều bình diện.
- Tiếp cận văn xuôi sau 1975 cần chú ý đến sự đổi mới tư duy nghệ thuật, cần có cái nhìn đa chiều, đa diện
B. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM:
I. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
1. Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937), là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút kí, là “một trong những nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc); sáng tác luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận và tư duy đa chiều với một lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. 
- Tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986), Hoa trái quanh tôi (1995)
2. Ai đã đặt tên cho dòng sông?
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Ai đã đặt tên cho dòng sông viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm ba phần, đoạn trích là phần thứ nhất.
2.2. Nội dung
2.2.1. Vẻ đẹp sông Hương được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên:
 - Sông Hương đầu nguồn được nhân hóa mang sức sống mãnh liệt, hoang dại, nhưng cũng rất đỗi dịu dàng, say đắm. Đó là vẻ đẹp rầm rộ, mãnh liệt của một bản trường ca của rừng già khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn để sống nửa đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại; vẻ đẹp dịu dàng và say đắm khi nó chảy giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
- Đến ngoại vi thành phố Huế: SH như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được người tình mong đợi đến dánh thức.Thủy trình của con sông như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái đẹp 
-Đến giữa thành phố Huế: SH như tìm được chính mình” vui hẳn lên”Nó có những nét tinh tế đẹp như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế 
-Trước khi từ biệt Huế: SH giống như “người tình dịu dàng và chung thủy”Con sông giống “như nàng Kiều trong đêm tình tự”, trở lại tìm Kim Trọng” 
 Nhà văn khai thác vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương bằng những rung cảm tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa.
2.2.2. Vẻ đẹp nhìn từ góc độ văn hóa:
- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng sông không lặp lại mình “dòng sông trắng, lá cây xanh” (thơ Tản Đà), vẻ đẹp hùng tráng “kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
2. 2.3.Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử
Từng là dòng sông bảo vệ biên thùy Tổ quốc Đại Việt, từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, những chiến công rung chuyển rồi đến cách mạng T8-1945, chiến dịch Mậu Thân1968.
2.2.4. Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng sáng tạo tài hoa của tác giả
Sông Hương như một cô gái Huế tài hoa, dịu dàng, sâu sắc, đa tình, kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu ngày xưa trong sắc áo điều lục đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn dấu khuôn mặt thật của chính dòng sông. Lối so sánh độc đáo kết hợp biện pháp nhân hóa, ẩn dụ làm cho câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
2.3. Nhan đề
- Tiêu đề lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông, cái tên gợi bao cảm xúc, nỗi niềm xưa cũ. Cái tên đẹp đó được tác giả lí giải bằng một bài tùy bút.
- Gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất lạ; làm đọng lại một niềm bâng khuâng trong tâm hồn người đọc.
2.4. Nét đẹp của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường
Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa tạo khả năng liên tưởng kì diệu; lối kí phóng khoáng, tài hoa, giàu thông tin văn học, lịch sử; giàu chất thơ trữ tình lãng mạn.
II. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
1. Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một nhà văn quân đội. 
- Trước 1975, là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. 
- Sau 1975, chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết học nhân sinh . Ông là người “mở đường tinh anh và tài năng” cho công cuộc đổi mới văn học. 
- Tác phẩm: Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Chiếc thuyền ngoài xa (1987)
2. Chiếc thuyền ngoài xa
2.1. Hoàn cảnh ra đời: Chiếc thuyền ngoài xa được viết tháng 8 - 1983, in đậm phong cách tự sự, triết lí của Nguyễn Minh Châu; tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kì đổi mới: hướng nội khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Lúc đầu in trong Bến quê; sau làm tên chung một tập truyện ngắn.
2.2. Nội dung
2.2.1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
- Phát hiện thứ nhất rất thơ mộng, một “cảnh đắt trời cho”: chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào đẹp như một bức hoạ thời cổ - một vẻ đẹp toàn bích, Phùng tưởng mình “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” trước “vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”.
- Phát hiện thứ hai mang nghịch lí như trong câu chuyện cổ đầy quái đản: Cảnh người chồng đánh vợ, đứa con thương mẹ đánh lại bố. Phùng không ngờ sau cảnh đẹp tuyệt đỉnh mà anh vừa bắt gặp lại là bao trái ngang, trớ trêu giữa đời thường. Anh nhận ra sự xa cách giữa cái đẹp của ngoại cảnh với số phận cực nhọc, tăm tối của con người, một cảnh tượng phi thẩm mĩ.
- Tình huống truyện cho thấy: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí. Chiếc thuyền ngoài xa mang đến bức ảnh đẹp toàn bích nhưng khi chiếc thuyền ở gần lại phơi bày một hiện thực nghiệt ngã về thân phận con người. Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là chân lí của sự hoàn thiện, là đạo đức.
2.2.2. Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện:
- Đó là người đàn bà nhọc nhằn, nghèo khổ thân hình cao lớn, với những đường nét thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới. Bị chồng đánh đập, hành hạ thường xuyên “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Những trận đòn trút lên chị thật tàn bạo và chị chịu đựng “cơn giận như lửa cháy” của người chồng bằng sự cam chịu nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”, không chịu bỏ chồng theo đề nghị của chánh án Đẩu .
- Lí do chị không li dị là vì vì chị cần có người đàn ông chèo chống lúc phong ba, đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình; vui khi nhìn đàn con được ăn no. Sợ con cái bị tổn thương nên chị xin chồng đưa lên bờ mà đánh.
- Người đàn bà thấu hiểu lẽ đời đáng được chia sẻ, cảm thông trong những cay đắng, khổ nhục đời thường và rất đáng trọng ở vẻ đẹp tình mẫu tử, lòng bao dung, đức hi sinh. Đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. 
- Câu chuyện của người đàn bà khiến chánh án Đẩu vỡ ra và suy nghĩ: muốn con người thoát khỏi đau khổ cần có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện ch

Tài liệu đính kèm:

  • dockien_thuc_trong_tam_ngu_van_12.doc