Phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong các tiết dạy phân môn vẽ tranh, bộ môn Mĩ thuật 6

PHẦN THỨ NHẤT MỞ ĐẦU:

1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

1.1/ Về mặt lý luận:

 Mỗi người mỗi nghề đều mang những đặc thù, đặc trưng riêng của từng ngành nghề sao cho phù hợp với từng năng lực sở trường của mình. Nghề dạy học được coi là một nghề cao quý bởi sản phẩm chủ yếu là nhân cách con người. Muốn trở thành con người hữu ích, đều phải dựa vào sự giáo dục của nhà trường.

 Dạy học đã khó, dạy mỹ thuật càng khó hơn. Bởi ngoài việc dạy học sinh những kiến thức cơ bản thì việc học mỹ thuật còn phải đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp ở trong mình, xung quanh mình trở nên gần gũi đáng yêu hơn. Đồng thời học mỹ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình, theo cách hiểu cách lý giải của bản thân, làm cho cuộc sống thêm tươi vui hạnh phúc. Dạy và học mĩ thuật ở THCS không nhằm đào tạo họa sĩ hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Chủ yếu tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày. Để làm được điều đó cần hiểu về cách nhìn cách cảm nhận, lý giải hiện tượng sự vật.của học sinh hay nói cách khác là “ngôn ngữ tạo hình” trong bộ môn mĩ thuật, mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này được tìm hiểu thông qua phân môn vẽ tranh.Việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS sẽ giúp cho giáo viên giảng dạy đánh giá một cách tích cực đúng đắn, gây hứng thú cho cả người học và người dạy, tìm ra được phương pháp, cách thức giảng dạy phù hợp đối tượng, lứa tuổi. Tuy nhiên dạy như thế nào? dạy thật tốt hay bình thường còn phụ thuộc ý thức, đạo đức nghề nghiệp của mỗi chúng ta năng lực chuyên môn.

 

doc 18 trang Người đăng phammen30 Lượt xem 2864Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong các tiết dạy phân môn vẽ tranh, bộ môn Mĩ thuật 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trong giờ dạy phân môn vẽ tranh
6- Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý thuyết để tìm ra cơ sở lý luận.
- Khảo sát thực tế dạy học mỹ thật ở lớp 6 trường THCS.
- Phân tích, lý giải, đối chiếu, chứng minh.
7. Thời gian nghiên cứu;
Bắt đầu từ năm học 2014 khi tôi được phân công công tác tại trường THCS Hồng Đại được trực tiếp giảng dạy môn mỹ thuật khối 6 và qua các đợt tập huấn dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Phần thứ hai- Nội dung
Chương I - Cơ sở lý luận của đề tài
1- lý luận của đề tài.
Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội về kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh, quốc phòng, những năm vừa qua Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó. Cùng với nhu cầu phát triển ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục và thể dục, thì mỹ dục cũng không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con ngời và nhất là thế hệ trẻ, mà đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh THCS.
Với bộ môn mỹ thuật hiện nay nói riêng, giáo viên giảng dạy mỹ thuật còn ít kinh nghiệm, không có cơ hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi thời lượng tiết còn ít, mỗi trường chỉ có một giáo viên. việc trao đổi và thảo luận gặp nhiều khó khăn. Đồng thời đây cũng là bộ môn mối được đưa vào gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu thị hiếu của con người, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người lớn, mà tất cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
	Giảng dạy mỹ thuật ở lớp 6 trường THCS cũng nhằm mục tiêu trên. Trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần chú ý đặc điểm lứa tuổi học sinh, mỗi lứa tuổi sẻ có cách cảm nhận suy nghĩ và lý giải về cái đẹp khác nhau. Người lớn có cách cảm nhận lôgic và khoa học tạo nên một cái đẹp hoàn thiện, còn trẻ em thì có cách cảm nhận ngây thơ, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng, không vướng bận những nguyên tắc, trăn trở mà chủ yếu tập trung tình cảm sự yêu thích của mình vào bài vẽ. Cho nên bài vẽ học sinh thường đem lại cho ta nhiều cảm xúc và tình cảm mới lạ. Nói là vậy nhưng mỗi lứa tuổi, mỗi mức độ cách cảm nhận của con người mỗi đổi thay. Là người giáo viên dạy mỹ thuật cần nắm bắt được đặc điểm này của học sinh đễ có phương pháp giảng dạy tốt nhất, phát huy được năng lực sự đam mê của các em. Đây cũng là lý do tôi chọn để viết chuyên đề “Phát huy tính tích cực sáng tạo trong các tiết dạy phân môn vẽ tranh ở trường THCS”.
 Dạy mỹ thuật cũng như dạy các bộ môn khác đối tượng chủ yếu là học sinh, dạy cho học sinh theo những nội dung yêu cầu chương trình đã quy định. Nhưng dù dạy bất cứ cái gì thì cần phải tìm hiểu rõ đối tượng cần truyền đạt là ai, đối tượng nào, truyền đạt ở mức độ nào.
 	ở đây đối tượng tìm hiểu là học sinh THCS, mà cụ thể là học sinh lớp 6 THCS Hồng Đại. Lứa tuổi từ 11 đến 15 với những đặc điểm tính cách nhận thức riêng. Bộ môn mỹ thuật là môn học mà kiến thức của nó vừa cụ thể, rõ ràng vừa chung chung trừu tượng, khó thấy khó nhìn, là loại kiến thức có ở xung quanh ta, lấy những sự vật hiện tượng quanh ta đễ biểu đạt. Điều đó đòi hỏi giáo viên ngoài việc phải nắm vững kiến thức chuyên môn thì cần phải nắm vững kiến thức ở các bộ môn liên quan như “tâm lý học lứa tuổi, xã hội khoa học tự nhiên,...” Trong đó cái cốt lõi cần phải nắm là đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh lớp 6 mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này nó nằm trong phạm vi phân môn vẽ tranh. 
Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của hội hoạ nói chung bao gồm nhiều yếu tố, như tính không gian, tính tạo hình trực tiếp trong đó bao gồm đường nét hình khối, màu sắc...Và ngôn ngữ tạo hình của học sinh lớp 6 cũng không nằm ngoài những yếu tố đó.
Học sinh lớp 6 có cách nhìn, cách cảm nhận lý giải như thế nào về những sự vật hiện tượng xung quanh, về hình khối , màu sắc sự cảm nhận đó có khác gì so với sự cảm nhận của người lớn, của từng lứa tuổi khác nhau. Nó có những điểm thuận lợi khó khăn gì và những điểm mạnh điểm yếu trong cách nhìn nhận, cảm thụ của học sinh lớp 6. Đó là những điều cần phải nghiên cứu tìm hiểu đễ bổ sung vào lượng kiến thức chuyên môn của người giáo viên giảng dạy bộ môn mỹ thuật.
2- Cơ sở thực tiễn các luận điểm- quan điểm khoa học:
2.1. Thực tế của việc dạy phân môn vẽ tranh theo tinh thần đổi mới phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh.
 Cho đến hiện nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được triển khai một cách sâu rộng ở tất cả các bộ môn nhưng việc tổ chức cho học sinh học tập trong giờ dạy phân môn vẽ tranh, đặc biệt việc thiết kế và tổ chức các hoạt động trong giờ dạy phân môn vẽ tranh phát huy tính tích cực của học sinh còn nhiều vấn đề cần trao đổi, bàn bạc, rút kinh nghiệm.
Qua dự giờ, thăm lớp, qua sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn tôi thấy các giáo viên trong các trường THCS khi thiết kế và tổ chức các hoạt động trong giờ dạy học văn theo hướng đổi mới phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh có một số ưu và nhược điểm sau:
a) Ưu điểm
- Giáo viên đã tổ chức cho học sinh tự mình phát hiện chi tiết, hình ảnh.
- Giáo viên chú ý đưa ra những câu hỏi phát vấn để học sinh suy nghĩ tìm ra đáp án cụ thể các đáp án là ý tưởng là vẻ hồn nhiên của tuổi thơ.
- Học sinh đã được thảo luận nhóm, làm thực hành nhóm, đánh giá theo nhóm
- Giáo viên có sử dụng một số phương tiện dạy học hiện đại như: Băng đĩa, máy chiếu đa năng...
b) Mặt hạn chế
- ở một số giờ, giáo viên chưa biết thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy học theo hướng đổi mới phương pháp. Giáo viên vẫn quen kiểu dạy theo phương pháp cũ như: Thầy hỏi, trò trả lời; thầy nghe, nhận xét, ghi bảng; Trò nghe ghi chép vào vở. ở những giờ học đó giáo viên thì rất vất vả còn học sinh hoàn toàn thụ động.
 Ví dụ: 
Khi dạy tiết vẽ tranh giáo viên không sử dụng phiếu học tập để tổ chức cho học sinh thảo luận mà lần lượt hỏi học sinh: Các câu hỏi mang tính chiếu lệ, đã có trong SGK.
- ở một số giờ, giáo viên đã biết tổ chức cho học sinh hoạt động để phát hiện chi tiết hình ảnh nhưng còn một số vấn đề chưa hợp lý như:
+ Hoạt động này hoạt động mất quá nhiều thời gian, lý do:
* Giáo viên không hướng dẫn học sinh sưu tầm tìm hiểu đề tài trước
* Giáo viên chưa yêu cầu được các nhóm học sinh trưng bày kết quả
	+ Giáo viên vẫn phải nói nhiều. Lý do: Sau khi học sinh báo cáo kết quả hoạt động của nhóm mình, giáo viên lại nhắc lại một lần nữa.
	Giáo viên: Nhận xét, rồi trưng đáp án. Sau đó giáo viên lại nói lại
 Làm như vậy vừa mất thời gian mà giờ học có cảm giác "không thoáng"
+ Giáo viên không khai thác triệt để kết quả của hoạt động phát hiện chi tiết hình ảnh để tổ chức các hoạt động phân tích, lý giải, bình, liên hệ
Ví dụ: Khi dạy tiết vẽ tranh theo đề tài “Chú bộ đội-lớp 6” Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm theo câu hỏi
? Kể các binh chủng mà em biết.
? Quân phục của các binh chủng khác nhau. 
?Vũ khí tác chiến của các binh chủng...
Nhưng sau đó giáo viên lại không biết sử dụng kết qủa của hoạt động ấy để hướng dẫn học sinh phân tích, lý giải cảm nhận vẻ đẹp của chú bộ đội trong mắt trẻ thơ, mà lại hỏi học sinh: Đề tài này có phong phú không? Các em có thích không Qua đề tài muốn nói với ta điều gì? Làm như vậy hoạt động của thầy và trò không toát lên kiến thức trọng tâm của bài mà còn làm cho các em thiếu sự sáng tạo, và vận dụng sáng tạo.
- ở một số giờ dạy, giáo viên chú ý tổ chức cho học sinh hoạt động phát hiện chi tiết hình ảnh; phân tích, lý giải mà không chú ý đến hoạt động bình của giáo viên, cảm nhận của học sinh. 
- ở một số giờ giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học chưa hợp lý, chưa khoa học. Do đó không phát huy được tính sáng tạo của học sinh.
Ví dụ.
- ở một số giờ giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận sôi nổi nhưng chưa hướng dẫn được cho học sinh "bóc tách ý đồ" mà đề tài cần đạt 
2.2/ Thực tế của việc dạy phân môn vẽ tranh theo hướng đổi mới phương pháp dạy học của bản thân
- Trước kia khi dạy phân môn vẽ tranh trong chương trình mĩ thuật lớp 6 tôi chưa thực sự chú ý thiết kế và tổ chức các hoạt động cho học sinh. Tôi thường chú ý đặt câu hỏi để học sinh trả lời. Những kiến thức phần phân tích, lý giải, bình, khai quát, tôi có hỏi học sinh nhưng hầu như các em làm việc rất ít, giáo viên còn phải nói rất nhiều.
- Trước kia, tôi thường bị mất nhiều thời gian vào đơn vị kiến thức phát hiện. Phần bình tranh trong SGK, liên hệ không thực hiện được một cách kỹ lưỡng do hết thời gian, thậm trí có nguy cơ thiếu thời gian cho học sinh thực hành.
- Sau khi tích cực dự giờ thăm lớp, trao đổi rút kinh nghiệm, nghiên cứu tài liệu, qua thực tế giảng dạy, tôi đã sáng rõ hơn về vấn đề thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy và học trong giờ dạy phân môn vẽ tranh theo phương pháp đổi mới, để phát huy tính tích cực của học sinh ở chỗ: 
+ ở một số bài vẽ, nếu có thể giáo viên nên thiết kế và tổ chức cho học sinh được làm việc ngay từ hoạt động khởi động vào bài.
+ ở hoạt động tìm hiểu chung giáo viên nên thiết nội dung các hoạt động phù hợp để học sinh vừa được làm việc nhiều lại vừa mất ít thời gian của giờ học.
Chương II: Thực trạng của đề tài
1- Thực trạng tâm lý người học:
HS rất hào hứng khi đến các tiết vẽ tranh vì trong đó học sinh thấy thư giãn thoải mái, nhất là nếu hoạt động vẽ ngoài trời hoặc theo nhóm. Tuy nhiên nếu không có sự nhiệt tình, khơi gợi cảm xúc cho các em hay hướng các em phải vẽ như thế nào để thành tranh và vẽ có bố cục đẹp thì có lẽ ý tưởng cảm xúc của các em chỉ mơ hồ trên nét vẽ nghệch ngoạc, lúc này không còn là sáng tạo thoải mái mà là hình thức tra tấn đối với HS không có năng khiếu. Trong thực tế khi HS lớp 6 mới học mĩ thuật nhất là bài vẽ đề tài học tập đầu tiên chưa quen với các bước vẽ (tôi đã hỏi 1 học sinh) em vẽ gì đây? học sinh trả lời em muốn vẽ, nhưng chưa biết phải bắt đầu từ đâu.
2- Khả năng sáng tạo của học sinh trong vẽ tranh:
Khả năng sáng tạo của học sinh có lẽ chúng ta ai cũng phải thừa nhận, đó là sự sáng tạo giàu cảm xúc nhất, hồn nhiên nhất. Có những tác phẩm lứa tuổi hồn nhiên các em vẽ ta không thể hình dung được một trái tim bé nhỏ lại có thể nói lên một điều vĩ đại, một ước mơ, một hoài bão lớn lao hay cả là những điều giản dị nhất - Nhất là các tiết vẽ tranh đề tài tự chọn hoặc đề tài ước mơ.
3- Nhận thức vẻ đẹp của tác phẩm khi vẽ tranh:
HS nhìn thế giới dưới con mắt trẻ thơ vì vậy khi các em cảm nhận tác phẩm mĩ thuật của mình hay của bạn đều rất thật và đem cái thật đó áp dụng vào cuộc sống.
Ví dụ như vẽ tranh về đề tài học tập học sinh vẽ lại khung cảnh của lớp học mình, khi nhận xét giáo viên cho các em tự trình bày nội dung ý tưởng, có học sinh vẽ bài của mình và luôn muốn trên bàn thầy cô giáo lúc nào cũng có 1 lọ hoa tươi, tươi như nụ cười trên mặt thầy cô giáo- một sự liên tưởng, một nhận thức thật sự hồn nhiên!
Sự kết hợp giữa học môn mĩ thuật với cuộc sống rất quan trọng vì nó có một mục tiêu cụ thể đó là mang lại một con người của cái đẹp.
Chương IIi: giải quyết vấn đề
I. Biện pháp giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng bài vẽ ở phân môn vẽ tranh.
1-Khâu chuẩn bị
 Trước khi dạy một bài vẽ tranh đề tài thì khâu chuẩn bị là rất quan trọng nhất là đồ dùng dạy học. Về phía giáo viên ngoài việc chuẩn bị giáo án, phương pháp dạy học thì một điều không thể thiếu đó là đồ dùng trực quan (tranh , ảnh minh hoạ) vì ở lứa tuổi trẻ em thì tranh ảnh nó có tác dụng rất mạnh đến thị giác và trí nhớ của các em, do vậy cần phải có đồ dùng trực quan phong phú và phải biết sử dụng đúng lúc, 
Về phía học sinh củng phải có sự chuẩn bị đầy đủ, sách vỡ giấy vẽ, màu chì tẩy, những đồ dùng học tập cần thiết, ngoài ra phải tìm hiểu và quan sát tham khảo những đề tài mà mình sẽ thể hiện trước khi làm bài.
Khi soạn giáo án cần soạn kỹ, biết chắt lọc những lời thoại, câu hỏi chính và câu hỏi gợi mở phải rõ ràng dễ hiểu nhằm tạo hứng thú và sôi nổi trong từng đối tượng học sinh. Nên tránh những câu hỏi dài khó hiểu và những câu hỏi lửng . 
+ Đối với học sinh yêú kém cần gợi mở cụ thể hơn giúp các em nhận ra chổ chưa đúng chưa đẹp để bài vẽ đẹp hơn .Ví dụ: Bố cục có lỏng lẻo quá không, hay màu sắc có lộn xộn quá không? vv...
+ Đối với học sinh khá, trung bình thì có thể gợi mở để các em tìm tự tìm ra, tự điều chỉnh hay sửa chửa. Ví dụ: Chỗ này, màu này như thế nào ? Làm sao cho bài vẽ đẹp hơn ?
+Với học sinh giỏi thì yêu cầu cao hơn. Ví dụ: Thử tìm xem bài vẽ có chổ nào chưa hợp lý? Có thể vẽ khác được không?
Để phục vụ cho quá trình lên lớp tốt, thì giáo viên cần phải có thời gian và quá trình thâm nhập giáo án kĩ càng, phải nắm vững tiến trình bài dạy, Để vừa đảm bảo tiến trình bài dạy vừa giúp học sinh tiếp thu bài một cách có hiệu quả nhất, và điều cốt yếu nhất là phát huy tính tích cực sáng tạo của từng em, đồng thời phải tạo được bầu không khí vui vẽ thoải mái trong khi các em làm bài .
Giáo viên phải phân tích kĩ các bước tiến hành một bài vẽ tranh đề tài phải thực hiện theo những bước nào? Những bước đó là gì? và kết hợp đồ dùng minh hoạ đễ học sinh dễ nhớ dễ nắm bắt, và bài vẽ của học sinh lớp trước đễ các em có thể thấy được mức độ thể hiện bài, tham khảo tranh của các hoạ sĩ về nội dung. Tuỳ vào số lượng bài mà những bài sau có thể giảm thời lượng lý thuyết và tăng dành thời gian thực hành, hướng các em đi vào trình tự các bước vẽ tranh
Vận dụng triệt đễ lợi thế khoa học công nghệ thông tin, sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác giảng dạy. Cho nên là người giáo viên nói chung, giáo viên mỹ thuật nói riêng cần phải nhanh chóng tiếp cận nắm bắt những lợi thế mà khoa học đem lại, tạo hứng thú và sự đổi mới trong cách giảng dạy.
2-Phần lên lớp 
Giáo viên phải linh hoạt trong thời gian lên lớp, phải đảm bảo quy trình thời gian, phân chia lớp hợp lý, giúp các em nhận thức và hiểu được bài học ngay tại lớp, giúp các em vẽ được một bài vẽ tranh theo ý thích đúng qui trình thực hiện các bước vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh khai thác nội dung 
Qua hình minh hoạ, giáo viên gợi ý giúp các em hiểu sâu hơn về đề tài, tìm ra được cách thể hiện (cách vẽ ) khác nhau, tìm ra những ý tưởng hay dí dỏm cho tranh của mình 
+ Hướng dẫn học sinh cách vẽ 
Nên giới thiệu qua đồ dùng minh hoạ và kết hợp trực tiếp minh hoạ bảng để học sinh nhận thức rõ ràng hơn trình tự các bước cũng nhược điểm khi tiến hành theo trình tự các bước đem lại và nó cụ thể hơn khi chỉ là những lý thuyết sáo rỗng. Nếu như giới thiệu nội dung rồi mới chỉ vào tranh, e rằng học sinh không chú ý không nhận ra được cách tiến hành (đâu là mảng, đâu là hình trong mảng )
-Tìm bố cục, phác mảng chính phụ sao cho hợp lý, cân đối với tờ giấy rõ trọng tâm, rõ nội dung thể hiện được chủ đề.
-Vẽ hình, vẽ màu phải rõ đặc điểm của đối tượng không vẽ chung chung. Vẽ màu thì không vẽ hình quá chi tiết cụ thể sẻ rất khó đễ thể hiện, màu có thể vẽ như thực hoặc theo cảm hứng, song cần chú ý. Tương quan giữa các màu, không vẽ độc lập từng màu, chú ý đến độ đậm nhạt của các màu gam màu để thể hiện được tính chất bài vẽ. 
 + Hướng dẫn học sinh làm bài
Giáo viên cố gắng làm việc với nhiều học sinh và bao quát tổng thể lớp giúp các em tìm cách thể hiện ý tưởng của bản thân, bố cục mảng vẽ hình tìm màu. Dùng phương pháp gợi mỡ trong khi hướng dẫn học sinh vẽ tranh sẽ đạt hiệu quả hơn cả.
Bên cạnh đó phương pháp giảng dạy phù hợp ở phần thực hành cũng rất quan trọng. Cần xác định được nội dung kiến thức trọng tâm và yêu cầu hợp lý với đối tượng học sinh.
Luôn tạo được bầu không khí thoải mái nhẹ nhàng vui vẻ trong từng tiết dạy theo đặc điểm riêng của từng phân môn
Phải dự kiến được các tình huống sư phạm có thể xảy ra và xử lý linh hoạt đem lại hiệu quả giáo dục cao. Ngoài ra cần phải cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc nắm vững kiến thức lý thuyết, vận dụng kiến thức vào bài vẽ một cách linh hoạt không máy móc đễ làm cho bài vẽ sống động hơn có hồn hơn, và tiến tới việc nắm bắt cách thức sáng tạo một bức tranh riêng đi sâu vào chuyên ngành mình lựa chọn. 
II- Thiết kế giáo án minh hoạ (Phát huy tính tích cực sáng tạo trong các tiết dạy phân môn vẽ tranh bộ môn mĩ thuật lớp 6)
 Tiết 22 bài 22: Vẽ tranh – Lớp 6
đề tài ngày tết và mùa xuân
1- Mục đích yêu cầu:
a- HS yêu quê hương, đất nước thông qua việc tìm hiểu về các hoạt động của ngày tết và vẻ đẹp của mùa xuân.
b- HS hiểu biết hơn về bản sắc văn hoá dân tộc qua các phong tục tập quán ở mỗi miền quê trong ngày tết và mùa xuân.
c- HS vẽ hoặc cắt, xé dán giấy màu màu một tranh về đề tài Ngày tết và mùa xuân.
2- Chuẩn bị:
a. Đồ dùng dạy - học.	
Giáo viên:
- Bước vẽ tranh phác thảo.
- Bộ tranh về đề tài Ngày tết và mùa xuân (ĐDDH MT 6).
- Sưu tầm một số tranh ảnh khổ lớn về ngày Tết và mùa xuân gồm: tranh dân gian, tranh của học sĩ, tranh học sinh năm trước vẽ.
Học sinh:
- Dụng cụ học tập.
3-phương pháp dạy học - Phương pháp trực quan: GV cho học sinh xem nhiều bài mẫu, phân tích qua về nội dung, bố cục màu sắc để HS liên tưởng và tham khảo.
- Phương pháp vấn đáp, gợi mở: Gợi ý, đặt câu hỏi để HS thể hiện riêng cho từng chủ đề ngày Tết và mùa xuân.
4- Tiến trình dạy – học:
Hoạt động giáo viên
Hoạt động học sinh
.
.
Hoạt động 1
Tìm và chọn nội dung đề tài 
- Giới thiệu đề tài
+ Khơi gợi cho học sinh không khí ngày tết, ngày hội (bắt nhịp hát bài Tết tết tết đến rồi).
- Hướng dẫn HS quan sát tranh có cùng chủ đề.
-Đặt câu hỏi quan sát.
? Tranh vẽ về hoạt động gì của ngày tết hay mùa xuân.
? Các hoạt động này em đã được thấy và tham gia chưa.
? Tác giả bức vẽ này vẽ hoạt động gì là chính. Hoạt động nào là phụ.
? Màu sắc của các bức tranh về chủ đề này thế nào.
“Đặt câu hỏi khơi gợi cảm xúc, tìm hiểu sâu vào bài”
? Ngoài các hoạt động của ngày Tết trên ở địa phương ta còn có hoạt động gì khác, lễ hội gì khác.
? Em thích nhất hoạt động gì của ngày Tết.
(câu hỏi này giúp các em xây dung mảng chính)
? Em thấy ngày tết và mùa xuân không khí, cảnh vật, con người như thế nào.
- Hướng dẫn quan sát tranh hoạ sĩ, tranh dân gian, tranh học sinh.
(Câu hỏi khi các em xem tranh của bạn cùng trang lứa – nhằm cung cấp thêm các thông tin và hướng các en cảm thụ được nội dung qua bố cục, hình vẽ, màu sắc)
? Em thấy các bạn vẽ có đẹp không, các em có thể tìm được nội dung phong phú như các bạn không.
? Em hãy cho thầy giáo biết về cảm xúc của mình khi vẽ bài đề tài này (câu hỏi khép lại phần tìm và chọn nội dung đề tài).
Hoạt động 2 : Cách vẽ tranh
- Cho học sinh xem bước vẽ tranh phác thảo một bố cục.
? Theo các em ta còn có những dạng bố cục nào khác.
? (Gọi một HS bất kỳ)
+ Em sẽ vẽ về đề tài gì bố cục bài như thế nào.
+ Vẽ ở đâu (Ngoài trời hay trong nhà).
+ Vẽ mấy người nhóm chính.
+ Nhóm phụ là gì.
 ? (Câu hỏi cho cả lớp)
? Để vẽ được bài vẽ này, theo các em ta cần vận dụng cách vẽ như thế nào.
- GV hướng dẫn thêm về phần cắt, xé dán thành tranh.
Hoạt động3: Thực hành
- Hướng dẫn thực hành.
+ Chú ý giúp đỡ cách tìm bố cục.
+ Cách tìm hình.
+ Cách tìm màu.
Hoạt động 4: Đánh giá.
- Hướng dẫn nhận xét bài theo:
+ Cách tìm đề tài.
+ Bố cục.
+ Hình vẽ.
+ Màu sắc cụ thể của mỗi bài.
- Biểu dương những bài vẽ màu đẹp.
- Hứng thú với đề tài.
+ Hát theo nhịp bài quen thuộc.
- Quan sát tranh, nhận xét tranh.
+ Kể các hoạt động vẽ trong tranh.
+ Trả lời cá nhân.
+ Hoạt động ngày Tết (mùa xuân) là chính. Cảnh sắc không khí các hoạt động hỗ trợ cho nội dung là phụ.
+ Màu sắc thường tươi sáng.
+ Liệt kê các hoạt động trong dịp tết hoặc sau tết.
+ Trả lời.
+ Câu trả lời dành cho HS khá giỏi. Trả lời
+ Quan sát có thêm thông tin.
+ Nhằm tìm hiểu HS xây dung nội dung cho mình theo cảm xúc trước đề tài này.
- Quan sát.
- Trả lời theo kiến thức đã học.
- Trả lời cá nhân.
- áp dụng bước vẽ của bài vẽ tranh đề tài vào bài vẽ cụ thể.
- Hiểu có thể vẽ tranh hoặc cắt, xé dán vẽ màu trên cùng một tranh.
- Thực hành vẽ bài.
- HS nhận xét, đánh giá bài vẽ của bạn.
4- Dặn dò:
- Nhắc nhở những bài vẽ chưa hoàn thiện về màu về nhà hoàn thành tiếp.
- Có thể vẽ tranh khác.
- Chuẩn bị cho bài sau.
	Phần III - Kết luận và những kiến nghị
1/ Kết quả của việc thực hiện
	Với việc sử dụng bài tập trong dạy học văn theo phương pháp mới tôi thấy có những kết quả như sau: 
Dạy học theo phương pháp cũ
Dạy học theo phương pháp mới
Số lượng học sinh được hoạt động
- Số học sinh được làm việc (suy nghĩ, trình bày ý kiến của mình) ít
- Chỉ vài học sinh khá giỏi được trả lời, học sinh trung bình yếu không được làm việc mà chỉ nghe, ghi chép.
- Số học sinh được làm việc nhiều (thảo luận nhóm, làm việc cá nhân)
- Mọi đối tượng học sinh đều được làm việc, từ học sinh khá, giỏi đến học sinh trung bình, yếu.
Không khí lớp học
- Trầm
- Giờ học nặng nề
- Không khí lớp học sôi nổi, vui tươi.
- Giờ học nhẹ nhàng
Rèn kỹ năng nói cho học sinh
- ít có điều kiện rèn kỹ năng nói trước tập thể cho học sinh.
- Học sinh trung bình, yếu thường ngại, thậm chí sợ phải nói trước tập thể
- Rèn luyện kỹ nói trước tập thể cho nhiều học sinh.
- Học sinh bạo dạn khi nói trước tập thể
Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh
- Học sinh thụ động trong diễn đạt vì trong giờ học sinh các em chỉ ghi chép theo bảng và lời giáo viên đọc.
- Học sinh hiểu vấn đề và tự ghi chép theo cách hiểu của mình nên dần dần các em có khả năng diễn đạt tốt. Do đó các em sẽ hiểu bài sâu, nhớ bài lâu.
 Rèn kỹ năng cảm thụ mĩ thuật cho học sinh
Học sinh hầu như không được rèn kỹ năng cảm thụ tác phẩm nghệ thuật
Học sinh được hoạt động cả ở đơn vị kiến thức cảm nhận, bình. Do đó các em được rèn kỹ năng cảm thụ tác phẩm mĩ thuật.
Không một thành công nào mà không trải nghiệm thực tế. Đối với người thầy giáo cũng vậy, hiệu quả công việc của người thầy được đánh giá từ chất lượng học, tiếp thu kiến thức của HS trong giờ học. Việc sử dụng kinh nghiệm giảng dạy nhằm khơi gợi cảm xúc trong các tiết vẽ tranh cũng là thành quả của quá trình lao động nghiêm túc của người thấy giáo.
Qua gần hai năm áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy tôi đã thu được một số kết quả khả quan:
* V

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_PHTCST_CUA_HS_TRONG_PM_VE_TRANH_MT6.doc