Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Sơn Lư

I. MỞ ĐẦU.

1. Lý do chọn đề tài.

 Văn chương khơi gợi những tình cảm cao đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người. Văn chương làm phong phú thêm đời sống tinh cảm của con người.

 Các em học sinh ở bậc trung học cơ sở rất hồn nhiên trong sáng, nhất là học sinh lớp 6. Thầy cô giáo là người gieo trồng, dẫn dắt các em cả về tri thức và đạo đức. Với môn Ngữ văn thì về kiến thức văn học không chỉ riêng nội dung ý nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái niệm phân môn Văn, Tiếng Việt hay Tập làm văn nào đó mà học sinh cần phải có được những kĩ năng quý để làm một bài văn một cách thành thạo. Mặt khác văn học từ lâu đã là một bộ môn khoa học xã hội hay, song lại là một môn học khiến nhiều học sinh ngại học, ngại viết.

Thật đáng buồn nếu con người Việt Nam hiện đại giỏi về kiến thức tự nhiện, xã hội mà lại thiếu một trái tim biết yêu cái đẹp, thiếu lòng yêu thương con người.

 Xuất phát từ thực trạng là học sinh đầu vào của khối 6 về kiến thức và kỹ năng môn văn chưa có nhiều, chưa có kinh nghiệm trong việc học và tiếp thu các môn học mới (do thay đổi môi trường học từ cấp tiểu học lên cấp THCS) mà đặc biệt là môn Ngữ Văn. Do đó, làm thế nào để có thể giúp cho học sinh nắm vững được những kiến thức cơ bản, học tốt môn ngữ văn, nhất là đối với học sinh yếu kém, đó là vấn đề tôi rất quan tâm. Ở các em có sự khác biệt nhau về: khả năng tiếp thu bài, về nhận thức, sức khoẻ.v.v. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.

Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà cần phải biết nghiên cứu những phương pháp tối ưu nhất, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề này cũng là khó khăn với không ít giáo viên nói chung, đối với bản thân tôi núi riêng. Vì vậy cần phải tìm cách để khắc phục tình trạng này nhằm giúp các em đạt kết quả tốt nhất.

Với những thực tế trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn ổn định lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân tôi luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu kém. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi kiến thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.

Từ những lí do nêu trên, bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Sơn Lư” để áp dụng vào thực tế lớp 6A và trường THCS Sơn Lư

 

docx 15 trang Người đăng minhkhang45 Lượt xem 2841Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Sơn Lư", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n người Việt Nam hiện đại giỏi về kiến thức tự nhiện, xã hội mà lại thiếu một trái tim biết yêu cái đẹp, thiếu lòng yêu thương con người.
 Xuất phát từ thực trạng là học sinh đầu vào của khối 6 về kiến thức và kỹ năng môn văn chưa có nhiều, chưa có kinh nghiệm trong việc học và tiếp thu các môn học mới (do thay đổi môi trường học từ cấp tiểu học lên cấp THCS) mà đặc biệt là môn Ngữ Văn. Do đó, làm thế nào để có thể giúp cho học sinh nắm vững được những kiến thức cơ bản, học tốt môn ngữ văn, nhất là đối với học sinh yếu kém, đó là vấn đề tôi rất quan tâm. Ở các em có sự khác biệt nhau về: khả năng tiếp thu bài, về nhận thức, sức khoẻ.v.v... Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà cần phải biết nghiên cứu những phương pháp tối ưu nhất, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề này cũng là khó khăn với không ít giáo viên nói chung, đối với bản thân tôi núi riêng. Vì vậy cần phải tìm cách để khắc phục tình trạng này nhằm giúp các em đạt kết quả tốt nhất.
Với những thực tế trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn ổn định lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân tôi luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ  học sinh yếu kém. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi kiến thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.
Từ những lí do nêu trên, bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Sơn Lư” để áp dụng vào thực tế lớp 6A và trường THCS Sơn Lư 
2. Mục đích nghiên cứu
Mặc dù kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nhưng bản thân tôi cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí của lứa tuổi học sinh THCS. Đặc biệt là học sinh lớp 6, các em mới bước chân vào học môi trường mới, có sự thay đổi về môi trường học tập, về bạn bè, thầy cô, các môn học, cách học, nên các em còn bỡ ngỡ, cũng như cách tiếp thu kiến thức còn hạn chế. Cụ thể ở đây là môn Ngữ văn. Vì vậy ngày từ đầu năm học chúng ta cần phải tạo cho các em có được một môi trường học tập thân thiện, gần gũi thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu kém , giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để tôi luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn chưa đạt hiệu quả cao. Để từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này.
 	3. Đối tượng nghiên cứu.
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài hướng đến là đối tượng học sinh yếu kém khối 6, từ đó đưa ra các biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Ngữ văn 6.
4. Phương pháp nghiên cứu.
 Trong việc thực hiện nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm ''Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Sơn Lư” này, tôi sử dụng các phương pháp sau:
-Phương pháp điều tra: 
- Phương pháp quan sát: 
- Phương pháp trò chuyện
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trong quá trình thực hiện việc nghiên cứu đề tài này tôi đã vận dụng và kết hợp các phương pháp với nhau để đạt hiệu quả tốt nhất.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận.
 	 Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Tuy nhiên không phải học sinh nào cũng có thể thấy được điều đó. Đặc biệt là học sinh yếu kém, các em đã yếu trong việc tiếp thu bài, đã “ngại học” thì việc làm cho các em thích thú học bài, yêu thích môn văn là điều không dễ chút nào.
 	Dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS. Đặc biệt là chuẩn kiến thức kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ học Ngữ văn, những kiến thức kỹ năng có trong bài học, tham khảo sách hướng dẫn và một số tài liệu bồi dưỡng trong chương trình Ngữ văn. Bên cạnh đó cần có sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân qua thực tế dạy học và phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn trong thời gian qua, để từ đó tìm ra được những biện pháp tối ưu nhất .
2. Thực trạng của vấn đề học văn ở học sinh lớp 6 Trường THCS Sơn Lư.
Thực sự mà nói tỉ lệ học sinh học yếu môn Ngữ Văn đầu vào của khối 6 trường THCS Sơn Lư là không ít. Mặt khác, trình độ tiếp thu của học sinh khu vực miền núi cũng có nhiều hạn chế, ý thức học tập của các em chưa cao, chưa có sự quan tâm, giám sát của gia đình. Điều kiện kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn vì thế các em thích “làm nan”, “lên rừng hái củi, hái măng” để “kiếm tiền” hơn là học. Hầu hết ở trên lớp thầy cô dạy gì thì về nhà các em để đấy chứ không chịu học bài và làm bài tập. Cho nên việc tìm đọc thêm tài liệu tham khảo là việc quá “xa vời” đối với các em. Mà đối với môn văn thì cần phải có sự say mê, yêu thích, tìm tòi và “ôn luyện” vì đây là môn không hề “dễ” học. Đặc biệt đối với các em học sinh yếu kém vốn dĩ đã chán học, tiếp thu bài chậm, hay tự ti Vậy để làm sao cho các em hứng thú với môn văn thì đó quả là một việc làm không dễ gì.
Khó khăn mà tôi gặp phải trước khi tiến hành sáng kiến đó là:
- Hầu hết gia đình các em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, tầm nhìn về giáo dục của phụ huynh rất thấp, các phụ huynh đều ỷ vào nhà trường cho nên ít quan tâm đến việc học của con em mình.
- Đa số các em nhà ở quá xa trường nên việc đi lại cũng hết sức khó khăn 
-Trình độ học sinh không đều nhau 
- Hụt hẫng kiến thức từ lớp dưới 
- Ý thức tự học ở nhà của các em rất kém, nhác học, lười học, không nghiên cứu đọc tài liệu, sách báo, không làm bài tập, soạn bài ở nhà, trên lớp không tích cực phát biểu xây dựng bài, không chủ động tham gia vào các hoạt động tập thể để tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức.
- Các em chưa mạnh dạn bộc lộ suy nghĩ hay đặt câu hỏi cho giáo viên, chưa biết tự đánh giá ý kiến của mình và của người khác.v.v
* Nguyên nhân dẫn đến các em học chưa tốt bộ môn Ngữ văn
- Trình độ tư duy kém linh hoạt, các em gặp khó khăn khi tiếp nhận thông tin và phân tích thông tin.
- Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đều trong hoạt động tư duy. Có những nét riêng với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước đó không đầy đủ, thiếu vững chắc. Văn là một môn khó học nên các em không thích vì học nhiều, đọc nhiều, dài và khó cảm nhận 
- Việc sử dụng ngôn ngữ còn lúng túng, chưa biết cách diễn đạt, nhiều chỗ còn lẫn lộn.
- Không hệ thống được lượng kiến thức đã học 
- Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau 
- Giáo viên sử dụng phương pháp chưa phù hợp
- Từ việc lĩnh hội kiến thức thiếu vững chắc đó, các em có thái độ thờ ơ với việc học, không chịu cố gắng, ngại khó, thiếu tự tin, thụ động chán nản trong học tập.
3. Các biện pháp giải quyết thực trạng.
Từ tháng 8/2016, khi nhận phân công giảng dạy môn Ngữ văn 6, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng để phân luồng học sinh và biết số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo kịp thời.
DANH SÁCH ĐIỂM KSCL ĐẦU NĂM MÔN NGỮ VĂN LỚP 6A
TT
Họ và tên
Điểm KSCL đầu năm
Xếp loại
1
Hà Tuấn Anh
5
TB
2
Lương Văn Bộ
4,5
Yếu
3
Lương Văn Cương
4
Yếu
4
Hà Thị Dung
6
TB
5
Phan Đức Dương
6
TB
6
Nguyễn Thị Hạnh
8
Giỏi
7
Lương Thị Hoa
4,5
Yếu
8
Lương Văn Lâm
4,5
Yếu
9
Hà Thị Luyện
6
TB
10
Lò Văn Luyện
4,5
Yếu
11
Cao Khánh Ly
3,5
Yếu
12
Lữ Văn Phận
2
Kém 
13
Hà Đức Mạnh
5,5
TB
14
Lê Thị Nhơ
6
TB
15
Lữ Thị Thỏa
7
Khá
16
Ngân Diệu Thúy
7
Khá
17
Hà Thị Trang
4
Yếu
18
Lê Hồng Tuân
2,5
Kém
19
Lương Văn Tuyến
3
Yếu
20
Lò Thị Tuyến
5
TB
Là giáo viên đứng lớp trực tiếp dạy môn Ngữ Văn, tôi luôn cố gắng tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Từ thực trạng trên tôi đã áp dụng một số các biện pháp sau:
3.1. Những biện pháp chung.
3.1.1. Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện. 
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần thiết để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
Tôi luôn tạo cho lớp học có một bầu không khí thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, không để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dự là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Các em hay có tính nhút nhát, e dè giáo viên cần động viên, ân cần chỉ bảo. Đối với những câu hỏi hay bài tập dễ thì giáo viên nên ưu tiên cho các em học yếu.
3.1.2. Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh.
Tôi luôn xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Khả năng tiếp thu bài chậm, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, sức khoẻ không tốt
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài: Thánh Gióng, đối với học sinh yếu cần cho các em nắm được ý nghĩa của văn bản: Ca ngợi hình tượng người anh hùng đánh giặc cứu nước tiêu biểu cho truyền thống yêu nước, đoàn kết, tinh thần anh dũng, kiên cường của dân tộc ta.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học sinh trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. 
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
3.1.3. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh.
Giáo viên phải giáo dục ý thức tự giác học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức tự giác học tập và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh, vì phụ huynh cũng chưa quan tâm nhiều đến việc học của con em mình. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
3.2. Những biện pháp cụ thể.
- Trong quá trình dạy, giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi văn học, thi đua, trò chơi tiếp sức  phối hợp đan xen nhau tạo hứng thú cho các em tiếp thu bài tốt hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Từ mượn” tôi cho một số bài trắc nghiệm nhanh với mức độ dễ trên bảng phụ cho HS chọn đáp án đúng.
Câu 1: Những từ nào sau đây là từ mượn: Tráng sĩ, trượng, đỏ, nhà, sơn.
Câu 2: Đâu là từ mượn tiếng Hán, đâu là từ mượn tiếng Ấn – Âu: 
Sứ giả, giang sơn, gan, gác-đờ-bu, ra-đi-ô, In-tơ-net.
Câu 3: Các từ: Phụ mẫu, huynh đệ, phụ tử là từ mượn của tiếng nào?
Với những câu hỏi trên HS yếu kém có thể chọn được đáp án đúng. Ở câu 1 các em sẽ chọn được từ mượn là từ: Tráng sĩ, trượng, sơn. Câu 2 đáp án đúng sẽ là: từ mượn tiếng Hán (Sứ giả, giang sơn, gan), từ mượn tiếng Ấn – Âu (gac-đờ-bu, ra-đi-ô, In-tơ-net). Câu 3: đó là những từ mượn tiếng hán
Khi phụ đạo, tôi cho các em làm việc nhóm. Đôi lúc tổ chức cho các em thi tìm nhanh kiến thức . 
 Ví dụ : khi dạy các bài tôi đặt ra các câu hỏi dễ, tìm nhanh các đáp án đúng nhất và ưu tiên cho các em học yếu kém:
 Bài: Sông nước Cà Mau
 Bài văn “Sông nước Cà Mau” được trích từ tác phẩm nào?
A. Mũi Cà Mau.	B. Đất rừng phương Nam. 
C. Rừng U Minh	D. Hòn Đất.
Bài : So sánh.
Có mấy kiểu so sánh.
A. Một 	B. Hai	C. Ba 	D. Bốn.
Bài: Các thành phần chính của câu
Thành phần chính của câu là?
A. Chủ ngữ. 	 B. Vị ngữ
C. Trạng ngữ. 	 D. Chủ ngữ và vị ngữ.
- Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu, kém, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chia nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rừ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỹ. 
Ví dụ: khi dạy xong bài “Đêm nay Bác không ngủ” với tầm tiếp thu bài của học sinh yếu kém tôi cho một vài bài tập vừa sức để củng cố luôn kiến thức của các em:
Câu 1. Khoanh tròn vào chữ cái đứng đầu thông tin đúng : 
 A. Minh Huệ, tên khai sinh là Nguyễn Đức Thái, sinh năm 1927 
 B. Minh Huệ, tên khai sinh là Nguyễn Văn Thái, sinh năm 1927 
 C. Minh Huệ, tên khai sinh là Nguyễn Đức Thái, sinh năm 1928 
 D. Minh Huệ, tên khai sinh là Nguyễn Văn Thái, sinh năm 1929 
Câu 2. Bài thơ Đêm nay Bác không ngủ ra đời vào thời gian nào ? 
 A. 1950 
 B. 1951 
 C. 1952 
 D. 1953 
Câu 3. Nội dung của bài thơ Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ : 
A. Kể về một đêm không ngủ của Bác Hồ trên đường đi chiến 
 dịch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 
B. Ca ngợi tấm lòng yêu thương bao la của Bác Hồ đối với chiến sĩ và đồng bào 
 C. Nói lên lòng yêu kính của bộ đội và nhân dân đối với lãnh tụ 
 D. Cả ba nội dung trên 
Hoặc khi dạy bài “Bài học đường đời đầu tiên” tôi ưu tiên đặt câu hỏi dễ cho các em: “Bài học đường đời đầu tiên” là sáng tác của nhà văn nào? nhân vật chính là ai? Thì chắc chắn các em sẽ trả lời được là nhà văn Tô hoài và Dế Mèn là nhân vật chính
-Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái của học sinh. 
- Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.
-Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học. Sau mỗi tuần học cần có 1 bài kiểm tra những kiến thức đó học để nắm sự tiến bộ phát hiện kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế hoạch phụ đạo học sinh. Đây là một việc làm rất quan trọng vì đó là cơ sở để giáo viên đánh giá đúng về sự tiếp thu của từng học sinh và sẽ biết tìm ra được chõ yếu của cá em
-Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ các em yếu kém về học tập, về phương pháp vận dụng kiến thức .
Đối với lớp 6A có em Nguyễn Thị Hạnh, Ngân Diệu Thúy là HS giỏi; em Lữ Thị Thỏa, Lê Thị Nhơ, Hà Thị Dunglà HS khá của lớp. Trong các tiết dạy có tổ chức thảo luận nhóm thì tôi phân chia những HS khá, giỏi vào các nhóm để hướng dẫn giúp các em yếu kém. Đồng thời phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp sắp xếp các em này ngồi cùng bàn với các em học yếu để các em bảo ban, kèm cặp. 
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học yếu để báo cáo tình hình học tập của các em học yếu. Kết hợp phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc nhớ giúp các em đạt kết quả tốt hơn. 
3.2. Kết quả đạt được.
Qua các biện pháp nêu trên đã giúp các em học sinh yếu của lớp có sự tiến bộ một cách rõ rệt, đưa chất lượng học tập của các em nâng dần. Đến cuối HK I và HK II phần lớn các em đã nắm vững kiến thức và biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tỉ lệ yếu kém được cải thiện đáng kể. Tôi xin dẫn chứng cụ thể số liệu xếp loại học lực môn Ngữ văn qua học kỳ I và học kỳ II của năm học 2016-2017 như sau:
KẾT QUẢ CHẤT LƯỢNG HỌC SINH ĐẦU NĂM VỚI HỌC KÌ I VÀ HỌC KÌ II 
Lớp 6A
TT
Giỏi
Khá
T.Bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu năm
1
5%
2
10%
7
35%
8
40
2
10%
HK I
2
10%
6
30% 
9
45%
3
15%
0
0
HK II
3
15%
9
45%
8
40%
0
0
0
0
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với các biện pháp đã áp dụng trên, tôi thấy chất lượng học sinh đã có sự biến chuyển rõ rệt, học sinh phấn chấn, mạnh dạn hơn trong học tập, đặc biệt là học sinh yếu kém, các em đã không còn tự ti, lo sợ, căng thẳng khi học bài, tự tin phát biểu những câu hỏi dễ, có soạn bài và làm bài tập cô giáo giao.
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu giáo viên cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hoa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Học sinh luôn thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt tình của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. 
Mặt khác, với các biện pháp mà tôi đã áp dụng như trên vào đối tượng học sinh yếu kém tại trường đã phần nào nâng cao chất lượng của học sinh, giáo viên đồng môn cũng có thể áp dụng vào lớp của mình trực tiếp giảng dạy. Và điều đặc biệt là bản thân tôi thấy tự tin hơn trong việc giáo dục học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn do mình đảm nhận. 
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Công tác bồi dưỡng học sinh yếu là hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp đến quá trình nâng cao chất lượng dạy và học là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà trường. Chính công tác này giúp chúng ta nắm được hoạt động hàng ngày trên lớp của học sinh, đồng thời góp phần chống học sinh bỏ học của nhà trường.
	Qua phân tích thực trạng trên, tôi nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ, cơ bản các em biết cách lĩnh hội tri thức và biết vận dụng kiến thức vào thực tế. Ý thức của các em đối với việc học được nâng cao hơn. Tuy nhiên, còn có một số học do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà xa trường nên các em nghỉ học nhiều, vì thể các em có một phần nào đó không nắm đuợc hệ thống kiến thức của bộ môn Văn
	Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy được vai trò của người giáo viên là hết sức quan trọng, vì thế giáo viên phải luôn tự hoàn thiện mình bằng cách: 
	+Tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng.
	+Tự nghiên cứu, đọc tài liệu liên quan chuyên môn nghiệp vụ
	+ Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, bạn bè 
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng con tim của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình.
Qua công tác giảng dạy, thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẻ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp ý kiến. Tôi xin chân thành cảm ơn.
2. Kiến nghị.
a. Đối với nhà trường
-Cần có sự chỉ đạo chung cho toàn thể giáo viên của trường trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém
-Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc giáo viên thực hiện tốt công tác này; đây là công tác trọng tâm của nhà trường trong việc chống học sinh bỏ học. 
b. Đối với giáo viên Chủ nhiệm
- Cần có sự phối hợp tốt với giáo viên bộ môn để cùng nhau giúp đỡ học sinh vượt qua được những hạn chế của mình.
- Luôn trao đổi với cha mẹ học sinh, đặc biệt là những học sinh kém để tác động kịp thời.
 Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Sơn Lư, ngày 19 tháng 04 năm 2017
 Cam kết không coppy
 Người thực hiện
 Hoàng Thị Mận
 MỤC LỤC
TT
TIÊU ĐỀ TỪNG PHẦN
Trang
I
 Mở đầu
1
1
Lý do chọn đ

Tài liệu đính kèm:

  • docxGiao an ca nam_12263667.docx