Chương 2: Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai (1954 - 1975)

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MĨ VÀ BÈ LŨ TAY SAI

(1954-1975)

2.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ-ngụy ở miền Nam

(1954-1965)

2.1.1. Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ 1954 và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới

Tình hình Việt Nam sau năm 1954

- Tình hình miền Bắc

+ Ngày 16-5-1955, tên lính viễn chinh cuối cùng của quân đội Pháp rút khỏi Hải Phòng và đến ngày 22-5-1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà. Tuy nhiên, Pháp cố tình khiêu khích, trì hoãn việc thực hiện ngừng bắn trên chiến trường. Tiến hành dụ dỗ và cưỡng bức gần 1 triệu đồng bào Công giáo ở miền Bắc di cư vào Nam, gây khó khăn cho ta khi tiếp quản Tuy nhiên, do tinh thần đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta nên đã hạn chế được một phần sự phá hoại của Pháp.

+ Ngày 10-10-1954, quân ta về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Ngày 1-1-1955, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, 25 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội đã tổ chức cuộc mít tinh trọng thể chào đón Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch về thủ đô sau 9 năm xa cách.

- Tình hình miền Nam

+ Ngày 14-5-1956, Chính phủ Pháp gửi cho hai Chủ tịch hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương một bản Thông điệp, thông báo về việc quân viễn chinh Pháp ở miền Nam Việt Nam đã rút hết.

+ Ngày 25-6-1954, Mĩ ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng chính phủ bù nhìn ở miền Nam. Tháng 9-1954, Mĩ lập ra khối “Liên minh quân sự Đông Nam Á” (SEATO), và ngang nhiên đặt miền Nam dưới sự bảo trợ của khối này (gồm Anh, Pháp, Niu Dilân, Ốtxtrâylia, Philíppin, Thái Lan, Pakitxtan).

+ Được Mĩ hà hơi tiếp sức Ngô Đình Diệm đã ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Chúng không những từ chối hiệp thương tổng tuyển cử mà tháng 7-1955 còn trắng trợn tuyên bố: “không bị ràng buộc bởi hiệp định”. Ngày 23-10-1955, Diệm bày ra trò “Trưng cầu dân ý” nhằm phế truất Bảo Đại, suy tôn Diệm làm tổng thống miền Nam. Ngày 4-3-1956, Diệm tổ chức bầu cử riêng rẽ, gian lận, âm mưu tách miền Nam ra khỏi Việt Nam và hợp pháp hóa địa vị thống trị của chúng. Tháng 10-1956, chính quyền Diệm cho ban hành hiến pháp của Việt Nam cộng hòa.

 

doc 20 trang Người đăng minhkhang45 Lượt xem 1365Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chương 2: Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai (1954 - 1975)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân, cũng như phục vụ chiến trường miền Nam.
- Việc xây dựng con người mới, nền văn hóa mới được đặc biệt coi trọng nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất và chiến đấu.
- Từ năm 1961 đến 1965, miền Bắc còn làm nghĩa vụ hậu phương, một khối lượng lớn hàng hóa, vật chất, các đơn vị vũ trang, nhiều cán bộ quân sự... đã được huấn luyện rồi đưa vào miền Nam chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
- Trong việc đề ra và thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất cũng đã phạm một số sai lầm khuyết điểm do tư tưởng chủ quan, nóng vội, giáo điều gây ra.
2.1.5. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ (1961-1965) 
 Đế quốc Mĩ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam
- Để cứu vãn cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập đoàn thống trị Giônxơn -Kennơđi chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam nước ta.
- Âm mưu cơ bản của Mĩ trong “Chiến tranh đặc biệt” là dùng quân ngụy, do cố vấn Mĩ chỉ huy, dựa vào trang bị, vũ khí của Mĩ để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, với mục tiêu “bình định” miền Nam, tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam, tấn công ra Bắc, là “dùng người Việt đánh người Việt”.
- Để thực hiện âm mưu đó, tháng 5-1961 Mĩ cử phó tổng thống Giônxơn sang miền Nam rồi xây dựng nên kế hoạch Xtalây – Taylo: tăng cường quân ngụy về mọi mặt, lấy quân ngụy làm công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh. Đưa thêm nhiều cố vấn quân sự, nhân viên quân sự cùng nhiều vũ khí và trang thiết bị chiến tranh hiện đại vào miền Nam.
+ Ngày 8-2-1962, lập ra bộ chỉ huy quân sự Mĩ do tướng Háckin chỉ huy. Số lượng quân ngụy tăng nhanh, năm 1965 là 36,2 vạn quân chính quy và 17,4 vạn bảo an dân vệ.
+ Cùng với những biện pháp trên, Mĩ - Diệm ráo riết tiến hành bình định, lập “ấp chiến lược”, coi đó là “quốc sách”. Chúng dự định xây dựng hệ thống ấp chiến lược bao gồm 16.000 ấp để thực hiện “tát nước bắt cá”, đã tiến hành hàng ngàn cuộc hành quân càn quét bằng các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”. Ném bom phát quang các vùng căn cứ cách mạng, các đường hành lang dọc Trường Sơn và khu giới tuyến quân sự tạm thời.
 Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ 
- Sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi”, nhân dân miền Nam tiếp tục mở rộng khởi nghĩa, phát triển thành cuộc chiến tranh cách mạng từng bước đập tan chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ. Phương châm đấu tranh là dùng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, tấn công địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận.
+ Tháng 1-1961, Trung ương cục miền Nam được thành lập. Ngày 15-2-1961, tại chiến khu D, các lực lượng vũ trang miền Nam thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam. Trong năm 1961 cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đã diễn ra trên cả ba vùng chiến lược, kết hợp quân sự với chính trị, đẩy mạnh công tác binh vận... vùng giải phóng được giữ vững và củng cố.
+ Sang năm 1962, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục thu được những thắng lợi mới, cuối năm 1962 có 6,5 triệu dân miền Nam được giải phóng. Ở các thành phố lớn, phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, thu hút hàng triệu lượt người tham gia, trong đó tầng lớp trí thức miền Nam bao gồm học sinh, sinh viên, nhà giáo đóng một vai trò quan trọng.
+ Ngày 2-1-1963, nhân dân miền Nam giành được một thắng lợi quan trọng ở Ấp Bắc thuộc tỉnh Mĩ Tho. Tại đây, với quân số ít hơn địch 10 lần, Quân giải phóng đã đập tan cuộc càn quét của 2.000 quân ngụy với trang bị đầy đủ, diệt 450 tên, bắn rơi 16 máy bay, bắn cháy 3 xe bọc thép M.113. Chiến thắng Ấp Bắc đánh dấu sự trưởng thành của Quân giải phóng.
+ Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân ở các đô thị cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Ngày 8-5-1963, 2 vạn quần chúng nhân dân Huế trong đó có 1/2 là tăng ni và tín đồ Phật tử đã đấu tranh phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ Phật trong các chùa. Ngày 11-6-1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của Mĩ - Diệm. Xúc động trước hành động đó, ngày 16-6-1963, 70 vạn đồng bào và tín đồ Phật đấu tranh. Cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân đã làm rung chuyển cả Sài Gòn.
+ Ngày 1-11-1963, Mĩ ủng hộ nhóm tướng lĩnh ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu lật đổ anh em Diệm Nhu, nội bộ ngụy quân, ngụy quyền lâm vào khủng khoảng trầm trọng.
- Nhằm cứu vãn tình thế, đầu năm 1964 tổng thống Mĩ Giônxơn thay cho Kenơđi bị ám sát 22-11-1963 thông qua kế hoạch Giônxơn - Mác Namara nhằm bình định miền Nam trong vòng 2 năm. Kiên quyết giữ vững thế tiến công địch cả về quân sự và chính trị, thực hiện lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trong 2 năm 1964-1965, ta đã liên tiếp giành những thắng lợi lớn có ý nghĩa quyết định. Cuối năm 1964, địch chỉ kiểm soát được 3.300 ấp, đến tháng 6-1965, chỉ còn 2.200 ấp, như vậy “quốc sách ấp chiến lược” đã bị ta phá tan, vùng giải phóng được mở rộng với 4/5 diện tích và 10 triệu dân.
- Lợi dụng nội bộ ngụy quyền mâu thuẫn, lục đục, Quân giải phóng chủ động mở nhiều chiến dịch với quy mô lớn, tiêu biểu là chiến dịch đông - xuân 1964-1965 với trận đánh mở màn vào ấp Bình Giã-Bà Rịa. Qua trận Bình Giã “quân ngụy Sài Gòn tỏ ra không đủ sức đương đầu với việt cộng”. Thừa thắng, sau Bình Giã quân và dân ta ở miền Nam đẩy mạnh tấn công và thắng lớn trên khắp các chiến trường. Tại Ba Gia-Quảng Ngãi tháng 6-1965, ta đã tiêu diệt từng đơn vị lớn của địch, làm cho quân ngụy tan rã từng mảng lớn và đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
 Như vậy, mặc dù “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ được đẩy lên mức độ cao nhất vào đầu năm 1965, nhưng vẫn bị nhân dân miền Nam đánh bại.
2.2. Hai miền đất nước trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ xâm lược. miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)
2.2.1. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ (1965-1968)
 Mĩ tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam
- Để cứu vãn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mĩ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân chư hầu và phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam, đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đồng thời dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc
- “Chiến tranh cục bộ” là một hình thức chiến tranh xâm lược trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mĩ. Âm mưu cơ bản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” tiêu diệt phong trào cách mạng, bình định miền Nam nước ta.
- Dựa vào ưu thế của mình về quân số, trang bị, khả năng cơ động nhanh, vừa đến miền Nam, Mĩ tập trung các sư đoàn chủ lực ra khắp các chiến trường, mở các cuộc hành quân “tìm diệt” để tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng (Vạn Tường - Quảng Ngãi tháng 8-1965, mở hai cuộc phản công mùa khô 1965-1966; 1966-1967), bằng hàng loạt cuộc hành quân, tấn công vào những vùng đất do cách mạng nắm giữ, chúng còn âm mưu dồn dân vào các ấp chiến lược.
- Một thủ đoạn nữa trong “Chiến tranh cục bộ” là dựng nên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” ngày 5-8-1964, từ tháng 2-1965 dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, rồi rêu rao “hòa bình thương lượng” để đánh lừa dư luận thế giới và nhân dân tiến bộ Mĩ.
Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ
- Trên mặt trận quân sự:
+ Ngày 26-5-1965, ta giành được thắng lợi ở Núi Thành (Quảng Nam), tại đây một đơn vị bộ đội địa phương của ta đã tiêu diệt gọn một đại đội quân Mĩ.
+ Chiến thắng Vạn Tường: ngày 18-8-1965, Mĩ đã huy động một lực lượng lớn gồm 9.000 quân cùng nhiều đơn vị xe tăng, không quân, hải quân mở cuộc hành quân lớn mang tên “Ánh sáng sao” vào một xóm ven biển, hòng tìm kiếm một thắng lợi để gây thanh thế. Mặc dù quân số của ta chỉ có một trung đoàn, trang bị ít hơn địch nhiều lần, nhưng các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đã chiến đấu dũng cảm, mưu trí. Sau một ngày đã bẻ gãy hàng chục cuộc tấn công của địch, diệt 919 tên, bắn cháy 22 xe tăng, hạ 13 máy bay.
+ Tiếp đến Quân giải phóng miền Nam đập tan hai cuộc phản công mùa khô của Mĩ: mùa khô lần thứ nhất 1965-1966 (Mĩ thực hiện từ 1-1966, kéo dài trong 4 tháng); mùa khô lần 2 (1966-1967), làm phá sản hoàn toàn các mục tiêu của chiến lược “tìm diệt” và “bình định”, nội bộ giới cầm quyền Mĩ bắt đầu phân hóa, mâu thuẫn.
- Trên mặt trận đấu tranh chính trị ta cũng giành được thắng lợi to lớn: ở hầu khắp các vùng nông thôn, quần chúng nông dân đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, trừng trị bọn ác ôn. Ở thành thị, giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác như học sinh, sinh viên, phật tử, binh sĩ ngụy nổi dậy đấu tranh, đòi lật đổ chế độ Thiệu - Kỳ, đòi quân Mĩ rút về nước.
- Cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968) của quân và dân ta ở miền Nam
+ Căn cứ vào tương quan lực lượng ở miền Nam, ta quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, nhằm vào các đô thị, tiêu diệt một bộ phận quân viễn chinh Mĩ, buộc chúng rút về nước, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền, giành chính quyền về tay nhân dân.
+ Vào đêm 30, rạng 31-1-1968 (tết Mậu Thân), nhằm đúng vào lúc giao thừa, sau lời thơ chúc tết của Hồ Chủ Tịch, quân và dân miền Nam đã đồng loạt tấn công và nổi dậy, đánh vào hệ thống phòng ngự của địch trên toàn miền Nam. Quân và dân ta ở miền Nam đã tấn công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh, 5/6 đô thị lớn trong đó có những thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế..., riêng thành phố Huế ta làm chủ được 26 ngày đêm. Cuộc tấn công và nổi dậy còn diễn ra ở hầu khắp các ấp chiến lược, các vùng nông thôn miền Nam, các căn cứ quân sự, kho tàng, làm tê liệt mọi hoạt động liên lạc và vận chuyển của địch.
+ Trong không đầy 2 tháng của đợt tấn công thứ nhất, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 150.000 tên địch có 43.000 tên Mĩ, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh. Đòn tấn công của ta đã làm cho địch choáng váng, làm chấn động cả nước Mĩ. Tướng Oétmolen bị cách chức. Bộ trưởng quốc phòng Mĩ Mác Namara từ chức.
+ Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 cũng còn hạn chế, xét về toàn cục, mục tiêu của Tổng tiến công và nổi dậy không đạt được đầy đủ. Sở dĩ như vậy là vì: ta chủ quan, đánh giá lực lượng của mình quá cao, lực lượng của địch quá thấp, do tư tưởng nóng vội, muốn giành thắng lợi lớn, để sớm kết thúc chiến tranh, chỉ đạo lại không kịp thời, không chủ động rút về vùng nông thôn để bảo tồn lực lượng (lẽ ra đợt 2 và 3 phải rút về vùng nông thôn).
+ Mặc dù còn một số hạn chế nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 vẫn có ý nghĩa hết sức to lớn: mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, là đòn sấm sét giáng xuống đầu quân xâm lược Mĩ, làm lung lay ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược, thực chất là thú nhận sự thất bại trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968 còn buộc Mĩ chấm dứt việc ném bom phá hoại miền Bắc và ngồi vào bàn thương lượng với ta tại Pari
2.2.2. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1968)
Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc 
- Thấy rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước, hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, nên ngay từ đầu và trong tất cả các thời kỳ của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mĩ luôn tìm cách phá hoại miền Bắc. Ngày 5-8-1964, Mĩ dựng nên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, vu cáo cho ta dùng máy bay ném bom vào tàu chiến Mĩ đang đậu ở ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, thuộc hải phận quốc tế. Ngày 7-2-1965, lấy cớ trả đũa quân giải phóng miền Nam tấn công doanh trại Mĩ ở Plâycu, Giônxơn ra lệnh cho không quân Mĩ mở chiến dịch “mũi lao lửa” ném bom thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ chính thức mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam.
- Thực hiện việc ném bom phá hoại miền Bắc, Mĩ nhằm phá hủy tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, đưa miền Bắc trở về “thời kỳ đồ đá”. Ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc vào miền Nam. Làm lung lay quyết tâm chống Mĩ của nhân dân hai miền Nam Bắc nước ta.
- Mĩ sử dụng một lực lượng lớn không quân và hải quân, bao gồm hàng ngàn máy bay thuộc 50 loại khác nhau, cùng với các phương tiện giết người hàng loạt và tàn bạo chưa từng có trong lịch sử, đánh vào các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, nhà máy, xí nghiệp, làng mạc, phố xá kể cả bệnh viện, đê điều, trường học... bom đạn của Mĩ đã phá hủy nhiều công trình kinh tế, văn hóa, giáo dục mà nhân dân ta tốn biết bao mồ hôi công sức xây dựng.
- Đứng trước một tình hình mới là cả nước có chiến tranh, tháng 12-1965, Trung ương Đảng họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 12 và ra Nghị quyết chỉ rõ: “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà”.
Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa chiến đấu vừa sản xuất
- Bước vào thời kỳ mới, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có chiến tranh (thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào hầm, hào, triệt để thực hiện sơ tán những người không có nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu đến nơi an toàn). Trong 3 năm từ 1965-1968, nhân dân miền Bắc đã đạt được những thành tựu phi thường, biểu hiện trên hai phương diện:
+ Về xây dựng kinh tế: chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp, ổn định đời sống nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do chiến tranh gây nên, bảo đảm nhu cầu sản xuất và chiến đấu tại chỗ. Trên mặt trận sản xuât nông nghiệp, sản xuất lương thực bình quân đầu người đạt 270kg, nhiều hợp tác xã đạt 5 tấn/ha. Văn hóa giáo dục, y tế trở thành bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
+ Về chiến đấu, toàn dân có phong trào bắn máy bay Mĩ, cả miền Bắc là một lưới lửa phòng không dày đặc tầm thấp, tầm cao, trẻ, già, trai, gái, nhà nhà, người người chiến đấu và phục vụ chiến đấu... tất cả tạo thành sức mạnh vĩ đại của cuộc chiến tranh nhân dân chống lại cuộc chiến tranh phá hoại chưa từng có trong lịch sử. Trong hơn 4 năm (từ 5-8-1964 đến 1-11-1968), 3.243 máy bay Mĩ đã bị bắn rơi, 143 tàu chiến bị bắn cháy, hàng trăm giặc lái Mĩ bị bắt sống.
- Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương lớn
+ Ngay trong điều kiện chiến tranh ác liệt, bị tàn phá nặng nề, miền Bắc vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn: luôn hướng về miền Nam, đáp ứng mọi yêu cầu của tiền tuyến với khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”.
+ Con đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ (dọc theo dãy Trường Sơn) và trên biển (dọc theo bờ biển Việt Nam), được khai thông từ tháng 5 -1959 ngày càng vươn dài và mở rộng.
+ Qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược ấy, từ 1965-1968 miền Bắc đã đưa vào miền Nam 300.000 cán bộ, bộ đội chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tham gia xây dựng kinh tế văn hóa tại vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men... cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ.
2.2.3. Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ (1969-1973)
- Mĩ tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”
+ Lừa bịp nhân dân Mĩ bằng những lời hứa hẹn hòa bình, Níchxơn trúng cử tổng thống Mĩ thay cho Giônxơn, khi bước vào nhà trắng, cho ra đời học thuyết Ních Xơn với chiến lược quân sự “Ngăn đe thực tế”. Học thuyết này được vận dụng cụ thể ở từng nước: Việt Nam là “Việt Nam hóa chiến tranh”, ở Lào là “Lào hóa chiến tranh”, ở Campuchia là “Khơme hóa chiến tranh”, trên toàn Đông Dương là “Đông Dương hóa chiến tranh”.
+ Thực chất chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” được đề ra và thực hiện trên cơ sở điều chỉnh chính sách “phi Mĩ hóa chiến tranh” của Giônxơn, về cơ bản đó là chiến tranh giữa những người Việt Nam với nhau, là “dùng người Việt đánh người Việt” bằng tiền của và vũ khí của Mĩ, do Mĩ chỉ huy để tránh sự thiệt hại cho thanh niên Mĩ, xoa dịu làn sóng đấu tranh đang dâng cao trong các tầng lớp nhân dân Mĩ. Như vậy, gánh nặng chiến tranh sẽ được chuyển sang cho quân ngụy nhằm tận dụng triệt để xương máu của người Việt Nam phục vụ cho mục đích của Mĩ.
+ Mĩ rút quân nhưng chiến tranh dưới thời Níchxơn được tăng cường mở rộng ra toàn Đông Dương. Mĩ tăng viện trợ quân sự, trang bị, quân số cho quân đội ngụy, biến đội quân này trở thành đội quân có số lượng đông nhất trong các nước chư hầu của Mĩ (110 vạn quân chính quy).
+ Tìm mọi cách ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam bằng cuộc “chiến tranh bóp nghẹt”, phản kích sang Lào, Campuchia để hỗ trợ cho “Việt Nam hóa chiến tranh”.
+ Tiến hành chiến tranh ngoại giao (lợi dụng mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc), hòa hoãn với hai nước này để cô lập và gây sức ép với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
- Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, phối hợp với Campuchia và Lào chiến đấu chống chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mĩ
 Đứng trước một kế hoạch nham hiểm và đầy tham vọng của đế quốc Mĩ là Việt Nam hóa chiến tranh, cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam diễn ra trên cả 3 mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, trên toàn chiến trường Đông Dương với một lực lượng địch ở mức cao nhất (năm 1969 là 1,5 triệu quân ngụy, Mĩ và chư hầu). Đây là giai đoạn quân và dân miền Nam giành được thắng lợi toàn diện trên tất cả các mặt trận:
+ Tháng 4-1970, Mĩ giật dây cho bọn phản động làm cuộc đảo chính quân sự, xóa bỏ nền trung lập của Campuchia. Với tinh thần “Cứu bạn như cứu mình”, từ 30-4 đến 30-6-1970, ta phối hợp với bộ đội bạn đập tan cuộc hành quân của 100.000 quân chủ lực Sài Gòn, giải phóng 3/4 đất đai và 4,5 triệu dân Campuchia.
+ Trong hai ngày 24 và 25-4-1970, hội nghị Cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương đã họp tại Hà Nội và thành công tốt đẹp, ba dân tộc biểu thị tình đoàn kết và quyết tâm chống Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn.
+ Ở Lào, tháng 3-1971, ta đập tan cuộc hành quân lấn chiếm đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn quân chủ lực ngụy Sài Gòn mang tên “Lam Sơn 719”, nhằm cắt đôi chiến trường Đông Dương, cắt tuyến chi viện và căn cứ hậu cần chiến lược của ta. Sau 43 ngày đêm chiến đấu kiên cường, chúng ta loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 tên Mĩ - ngụy, phá hủy 500 máy bay... quét hết quân địch khỏi đường 9, bảo vệ an toàn hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
+ Trên chiến trường miền Nam, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng ở hầu khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, vùng núi, ven đô thị đều nổi dậy chống bọn ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Phong trào phát triển mạnh từ Quảng Trị đến đồng bằng sông Cửu Long. Ở thành thị, công nhân, học sinh, sinh viên, phật tử và các tầng lớp lao động khác đấu tranh mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú như bãi công, bãi khóa, mít tinh, biểu tình... phong trào của sinh viên đặc biệt phát triển ở các thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, họ là lực lượng châm ngòi cho các cuộc đấu tranh.
+ Từ ngày 6 đến 8-6-1969, Đại hội quốc dân miền Nam được triệu tập, Đại hội tuyên bố chính thể của miền Nam là Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bầu ra Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ cách mạng đã được 23 nước công nhận và 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
+ Những thắng lợi về quân sự chính trị, ngoại giao trên đây đã góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho cách mạng ở Đông Dương. Tình hình này tạo ra thời cơ cho một cuộc tấn công chiến lược mới. Thực hiện chỉ thị của Bộ chính trị, ngày 30-3-1972 ta bất ngờ tấn công vào Quảng Trị, lấy đây làm điểm tấn công chính sau đó phát triển ra toàn miền Nam. Cuộc tấn công này kéo dài suốt năm 1972. Ta tấn công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn trên cả 3 địa bàn chiến lược quan trọng nhất là Quảng Trị, Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ, cả ba tuyến phòng ngự của địch đều bị ta chọc thủng.
 Cuộc tấn công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta ở miền Nam đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Giáng một đòn nặng nề vào quân ngụy và quốc sách “bình định” - xương sống của “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thế bố trí chiến lược của địch trên toàn chiến trường miền Nam bị phá vỡ.
2.2.4. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện cho miền Nam, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973)
- Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện cho miền Nam (1969-1972)
+ Ngày 1-11-1968, Mĩ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, miền Bắc bước vào thời kỳ mới. Đảng chủ trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, ra sức chi viện cho tiền tuyến, chăm lo đời sống nhân dân, đồng thời khắc phục những thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội.
+ Trong nông nghiệp, ta đưa chăn nuôi dần lên thành ngành sản xuất chính, các hợp tác xã áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kỹ thuật, thâm canh, tăng vụ và đưa giống lúa mới vào sản xuất trên diện tích rộng, nhờ đó nhiều hợp tác xã đạt 6-7 tấn/ha.
+ Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá đã được khôi phục nhanh chóng trong đó đáng chú ý nhất là nhà máy thủy điện Thác Bà (Yên Bái) bắt đầu phát điện từ tháng 10-1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí... đều có bước phát triển.
+ Hệ thống giao thông vận tải bị tàn phá nặng nề cũng được khôi phục nhanh chóng, nhất là các tuyến giao thông chiến lược.
+ Trong thời gian này, ta vẫn nêu cao tinh thần cảnh giác, phát hiện kịp thời và đập tan các hoạt động phá hoại và do thám của Mĩ, điển hình là vụ tập kích xuống thị xã Sơn Tây (Hà Tây) ngày 21-11-1970 nhằm cứu phi công Mĩ. Nhân dân khu IV thì vẫn phải “lấy đêm làm ngày” đã bắn rơi 96 máy bay Mĩ.
- Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ (1972-1973)
+ Cuộc tấn công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta ở miền Nam đã đẩy Mĩ - ngụy rơi vào tình thế khó khăn, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đứng ở bên

Tài liệu đính kèm:

  • docLICH SU VIET NAM 1954_12262576.doc