LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiệu , nhiệm vụ , đối tượng và phương pháp nghiên cứu .2
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN NHÂN THÂN
1.1 Một số khái niệm về quyền nhân thân .3
1.2 Đặc điểm của quyền nhân thân 3
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
2.1 Sự phát triển các quy định của pháp luật về quyền nhân thân .6
2.2 Các quy định của pháp luật về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự 2005 7 2.2.1 Các quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình 7
2.2.2.Quyền nhân thân liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân .10
2.2.2.1Quyền của cá nhân đối với họ và tên .10
2.2.2.2Quyền xác định dân tộc .10
2.2.2.3Quyền đối với hình ảnh .11
2.2.3.Quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con người trong xã hội 12
2.2.3.1.Quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng , sức khỏe , thân thể .12
2.2.3.2.Quyền được bảo vệ danh dự , nhân phẩm .13
2.2.3.3.Quyền bí mật đời tư 14
2.2.4.Quyền nhân thân liên quan đến thân thể con người 15
2.2.4.1.Quyền hiến bộ phận cơ thể người sống ,quyền nhận bộ phận cơ thể.15
2.2.4.2.Quyền hiến xác , bộ phận cơ thể sau khi chết 16
2.2.4.3.Quyền xác định lại giới tính .17
2.2.5.Các quyền liên quan tới hoạt động lao động sáng tạo của cá nhân 17
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, NHỮNG HẠN CHẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN.19 KẾT LUẬN.24
ết hôn của cá nhân . Bởi khi thực hiện quyền kết hôn trong những trường hợp này sẽ ảnh hưởng tới các chủ thể trong mối quan hệ khác , cũng như đi ngược với truyền thống , phong tục và đạo đức xã hội. Hai là: Về quyền bình đẳng vợ và chồng. Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau: “Vợ chồng bình đẳng với nhau , có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự , cùng nhau xây dựng gia đình no ấm , bình đẳng , tiến bộ , hạnh phúc , bền vững”. Như vậy , quyền bình đẳng của vợ và chồng là quyền nhân thân gắn liền với vợ chồng mà không thể chuyển giao cho người khác.Đây là quyền và đồng thời cũng là nghĩa vụ của hai vợ chồng đối với nhau. Quyền được hưởng sự chung thủy của chồng hoặc vợ đối với mình là một quyền nhân thân rất trừu tượng . Do vậy, khi vợ , chồng nghi ngờ vợ hoặc chồng mình có hành vi không chung thủy thường có những hành vi để người còn lại thực hiện nghĩa vụ chung thủy đối với mình. Tuy nhiên , hành vi đó có thể làm ảnh hưởng tới nân phẩm, danh dự của người còn lại . Hoặc khi vợ chồng rõ ràng vi phạm nghĩa vụ chung thủy , vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng thì người kia có quyền yêu cầu chấm dứt sự vi phạm đó, có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình . Đó là phương thức hữu hiệu để bảo vệ quyền nhân thân. Những quyền nhân thân giữa vợ chồng luôn có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau , có ảnh hưởng lẫn nhau . Do đó , khi một quyền bị lạm dụng hoặc xâm phạm thì kéo theo các quyền nhân thân khác cũng bị ảnh hưởng theo. Ba là: Về quyền ly hôn Điều 42 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau: “ Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn” . Quyền ly hôn đặt trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình là quyền nhân thân gắn với vợ chồng và không thể chuyển giao cho ngưởi khác . Bản thân vợ hoặc chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt quan hệ hôn nhân của họ . Pháp luật cho phép vợ hoặc chồng có quyền được xin Tòa án cho ly hôn khi mối quan hệ vợ chồng không thể duy trì được nữa . Tuy nhiên cũng như quyền kết hôn, quyền ly hôn cũng bị hạn chế trong những trường hợp nhất định . Cụ thể , theo quy định tại khỏa 3 điều 51 Luật hôn nhân và gia đình thì: “ Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai , sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”. Quyền ly hôn , về nguyên tắc chỉ thuộc về vợ - chồng có hôn nhân hợp pháp và hôn nhân thực tế được pháp luật công nhân.Các trường hợp khác nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì pháp luật không thừa nhận họ là vợ chồng , đương nhiên họ cũng không có quyền ly hôn. Bồn là : Về quyền nhân thân có liên quan tới mối quan hệ giữa cha mẹ với các con và các thành viên khác trong gia đình : Người con được quyền khai sinh ( Điều 29) ;có họ tên , thay đổi họ tên ( Điều 26,27) , quyền được xác định dân tộc ( Điều 28) , quyền được xác định quốc tịch ( Điều 45); quyền được hưởng sự chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình ( Điều 41) , Cụ thể hóa các quyền này , Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định rất cụ thể về các quyền nhân thân cơ bản của cá nhân với tư cách chủ thể là người con trong mối quan hệ với cha mẹ . Điều 44 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định : “ Quyền được nuôi con và quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ Việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật” Trong quan hệ giữa cha mẹ và con , người con chưa thành niên chỉ đảm bảo quyền được thừa nhận làm con nuôi khi có những điều kiện nhất định về độ tuổi , về ý chí tự nguyện của người con đó và các chủ thể có liên quan , điều này cũng xuất phát từ các quyền của trẻ em . Khi thực hiện quyền làm con nuôi người khác , người con nuôi đó vẫn không mất đi một quyền nhân thân gắn liền với họ. Quyền nhận con nuôi là một quyền nhân thân của cá nhân khi đáp ứng các điều kiện do Luật hôn nhân và gia đình quy định . Có thể nói quyền được nhận con nuôi đã tạo ra quyền làm cha , làm mẹ của người nhận con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trong quan hệ cha mẹ và con. Ngoài các quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 liên quan tới quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật hôn nhân và gia đình 2014 có nhiều quy định chi tiết hóa các quyền nhân thân của cá nhân trong lĩnh vực này như : Quyền làm mẹ , quyền xác định cha , mẹ ; cha mẹ có quyền đại diện , giám hộ cho con cái theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó Luật hôn nhân và gia đình 2014 cũng có quy định thêm các quyền nhân thân giữa các thành viên trong gia đình như ông bà giám hộ cho cháu chưa thành niên ( Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình 2014). Tóm lại: Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những quy định rất cụ thể về quyền nhân thân trong lĩnh cực hôn nhân và gia đình . Ngoài ra, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định chi tiết về các quyền nhân thân này. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để các cá nhân trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình tôn trọng , hưởng các quyền nhân thân do luật định. 2.2.2 Quyền nhân thân liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân. 2.2.2.1 Quyền của cá nhân đối với họ và tên. Mỗi cá nhân sinh ra đều có tên gọi do cha mẹ đặt cho để phân biệt cá nhân đó với những cá nhân khác trong xã hội. Điều 26 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về quyền của cá nhân đối với họ và tên và Điều 27 quy định về việc thay đổi họ tên.Mặc dù một người có thể có nhiều tên gọi khác nhau như tên khai sinh , biệt hiệu , bí danh..nhưng khi tham gia quan hệ pháp luật mỗi cá nhân chỉ được công nhận mang tên riêng đó là tên được ghi nhận trong giấy khai sinh . Quyền đối với họ tên là một quyền nhân thân của cá nhân. Cá nhân có quyền này từ khi được sinh ra . Tuy nhiên , cá nhân cũng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ tên trong trường hợp : Tên và họ dùng gây nhầm lẫn , ảnh hưởng tới tình cảm của mọi người trong gia đình ; theo yêu cầu của cha mẹ nuôi khi nhận con nuôi ; theo yêu cầu của cha mẹ đẻ ; yêu cầu của người xác định lại giới tính .. Trong trường hợp này , thay đổi họ tên của người từ 9 tuổi trở lên thì phải được sự đồng ý của người đó. Tóm lại: Quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền đối với họ tên là khá cụ thể và chi tiết . Nó đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp trong giao dịch dân sự liên quan tới vấn đề họ tên. 2.2.2.2 Quyền xác định dân tộc. Đây là một trong những quyền nhân thân cùa cá nhân được quy định tại Điều 28 Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó , cá nhân sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ , mẹ đẻ . Trong trường hợp cha đẻ , mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định theo là dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha mẹ đẻ . Khác với quyền đối với họ tên , dân tộc của cá nhân được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ chứ không tự do lựa chọn . Dân tộc của cá nhân được ghi vào giấy khai sinh khi trẻ được đăng ký khai sinh . Vấn đề xác định dân tộc cũng là một phần của quyền nhân thân của cá nhân. Việc xác định lại dân tộc phải thỏa mãn các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định . 2.2.2.3 Quyền đối với hình ảnh. Theo Điều 31 Bộ luật dân sự năm 2005 thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình như sau: “ Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý ; trong trường hợp người đó đã chết , mất năng lực hành vi dân sự , chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha , me, vợ , chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện theo pháp luật của ngưởi đó đồng ý , trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước , lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác .Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, uy tín của người có hình ảnh”. Qua điều 31 Bộ luật dân sự năm 2005 , ta có thể thấy rằng khung pháp lý chưa đưa ra khái niệm thế nào là quyền đối với hình ảnh .Đây được xem là một những khó khăn cho các cơ quan thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới hình ảnh của cá nhân. Cũng như đối với giới luật học , khái niệm này cũng chưa đề cập một cách khái quát nên việc hiểu quyền nhânn thân đối vời hình ảnh còn rất mơ hồ và không ai nhận thấy giá trị thật của quyền này. Chúng ta có thể hiểu khái niệm hình ảnh của cá nhân là bao gồm các hình thức nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người như chụp , ảnh vẽ, bức tượng cá nhân. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý .Trong trường hợp người đó đã chết , mất năng lực hành vi dân sự , chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha , me, vợ , chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện theo pháp luật của ngưởi đó đồng ý , trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước , lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác .Như vậy , ta có thể hiểu quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân liên quan tới việc tạo dựng , sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh của mình theo ý chí của chính cá nhân đó. Cũng theo quy định tại điều luật này thì pháp luật bảo vệ quyền đối với hình ảnh cùa cá nhân. Cá nhân có toàn quyền đối với hình ảnh của mình. Bất kỳ hành vi sử dụng hình ảnh nào của cá nhân mà không xin phép chủ sở hửu đều bị coi là vi phạm quyền này . Tuy nhiên , quyền này cũng không phải là tuyệt đối bởi lẽ nó còn bị giới hạn trong trường hợp liên quan tới lợi ích chung và lợi ích Nhà nước thì Nhà nước có quyền sử dụng hình ảnh của cá nhân mà không vi phạm nguyên tắc này. 2.2.3 Quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con người trong xã hội. 2.2.3.1 Quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng , sức khỏe , thân thể. - Quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng: Đây là quyền dân sự của cá nhân , theo đó cá nhân có quyền duy trì sự sống và quyền làm chủ cuộc sống . Từ bản Hiến pháp đầu tiên cho tới bản Hiến pháp năm 2013 đều quy định “ Pháp luật bảo hộ về tính mạng cho công dân” luôn được ghi nhận ở vị trí trang trọng . Trở thành quyền hiến định của công dân trong lĩnh vực dân sự . Cụ thể hóa của quyền đó là nhiệm vụ của các ngành luật trong đó có pháp luật dân sự . Pháp luật dân sự quy định quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng là một quyền nhân thân của cá nhân . Nó một lần nữa được quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2005. Nội dung của nó được thể hiện ở khía cạnh là quyền được cứu chữa quy định tại khoản 2 Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2005: “ Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm đưa đến cơ sở y tế ; cơ sở y tế không được từ chối việc cứu chữa mà phải tận dụng mọi phương tiện , khả năng hiện có để cứu chữa .” Đây là quyền có nghĩa về mặt thực tế rất lớn , bởi lẽ tình trạng nguy hiểm tới tính mạng của cá nhân là một hiện tượng khách quan . Quyền này cũng đồng nghĩa với trách nhiệm , bổn phận của người phát hiện có điều kiện và cơ sở y tế. Việc một người có điều kiện nhưng đã không cứu giúp người khác đang trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng cũng là một căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự . Quyền đảm bảo an toàn về tính mạng của cá nhân còn thể hiện ở khía cạnh trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với người có hành vi vi phạm . Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (sữa đổi bổ sung năm 2009) đã giành 18 điều luật quy định những mức án nghiêm khắc nhất đối với các tội xâm phạm tới quyền sống của con người . Trên phương diên dân sự , trách nhiệm đặt ra đối với hành vi vi phạm này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp một phần những tổ thất gây ra. Cụ thể pháp luật dân sự quy định người có hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác phải bồi thường chi phí hợp lý việc cứu chữa , bồi dưỡng , chăm sóc cho người bị thiệt hại trước khi chết , chi phí cho việc mai táng..Mức bồi thường do các bên thỏa thuận , nếu không có thỏa thuận thì mức tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định ( Điều 610 Bộ luật dân sự ) - Quyền được đảm bảo an toàn về sức khỏe: Đây là quyền cá nhân được chăm sóc sức khỏe thường xuyên và quyền được khám , chữa bệnh khi đã mắc bệnh. Có thể nói đây là quyền có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với cuộc sống của con người . Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi ngày càng xuất hiện nhiều căn bệnh hiểm nghèo , cướp đi mạng sống của nhiều người trên thế giới. Việc đảm bảo quyền này không chỉ cần đến hành động chủ động của bản thân cá nhân đó mà còn đòi hỏi sự phối hợp hành động của Nhà nước và toàn xã hội. Bộ luật dân sự năm 1995 lần đầu tiên quy định những quyền nhân thân của cá nhân trong đó có quyền được đảm bảo an toàn về sức khỏe tại Điều 32 , Bộ luật dân sự năm 2005 cũng kế thừa những quy định này . Nhưng bên cạnh đó , Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định trách nhiệm dân sự đối với người thực hiện hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác , đó là việc bồi thường thiệt hại . Pháp luật lấy yếu tố chi phí làm căn cứ để xác định thiệt hại. Chi phí đó bao gồm chi phí chữa bệnh , bồi dưỡng , chăm sóc phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất , bị giảm sút của người bị thiệt hại, thu nhập thực tế của người bị thiệt hại . Mức bồi thường do các bên thỏa thuận , nếu không có thỏa thuận thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định ( Điều 609 Bộ luật dân sự ). - Quyền được đảm bảo an toàn về thân thể: Đây là quyền của cá nhân được tự do về thân thể và được đảm bảo sự toàn vẹn của thân thể. Bộ luật dân sự năm 1995 thừa nhận quyền được đảm bảo an toàn về thân thể của cá nhân tại Điều 32 . Trong điều luật , quyền này được thể hiện ở khía cạnh cá nhân có quyền quyết định về sự an toàn thân thể khi cho phép hay không cho phép một tác động từ bên ngoài vào cơ thể của mình đặc biệt trong việc chữa bệnh theo phương pháp mới hoặc trong việc gây mê, mổ , cắt bỏ , cấy ghép bộ phận cơ thể .Theo điều luật trên thì bác sĩ không được phép phẫu thuật nếu không được sự đồng ý của bệnh nhân, nếu bệnh nhân là người chưa thành niên , mất hay hạn chế năng hành vi dân sự thì phải được sự đồng ý của người đại diện , người giám hộ của bệnh nhân. Tuy nhiên trong điều luật này thì cũng phải xét tới tình trạng nguy kịch của bệnh nhân cần phẫu thuật ngay , bác sĩ có thể tiến hành phẫu thuật mà không cần chờ ý kiến của người thân , người đại diện của bệnh nhân với sự cho phép của người đứng đầu cơ sở chữa bệnh . Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời một lần nữa khẳng định tính ổn định của quyền được đảm bảo an toàn về thân thể khi đã kế thừa toàn bộ nôi dung quy định trong Bộ luật dân sư năm 1995 . Tuy nhiên , tính khả thi của quyền này được đẩy cao hơn khi có sự thay đổi về mặt thuật ngữ “ người thân thích” trong Bộ luật dân sự 1995 được cụ thể hơn trong Bộ luật dân sự 2005 là “ vợ, chồng, con đã thành niên” sự thay đổi này làm cho điều luật trở nên dễ hiểu hơn. 2.2.3.2 Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm. Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “ Danh dự , nhân phẩm . uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.” Danh dự của cá nhân thể hiện sự coi trọng của dư luận xã hôi đối với cá nhân đó , dựa trên những giá trị tinh thần đạo đức tốt đẹp. Nhân phẩm của con người là những phẩm chất và giá trị con người của cá nhân đó.Uy tín là cá nhân thể hiện sự tín nhiệm và mến phục của cộng đồng hoặc của một bộ phận dân sự đối với cá nhân. Cả 3 yếu tố trên tuy có tính độc lập tương đối nhưng lại đều hướng tới sự thể hiện giá trị tinh thần của cá nhân. Theo điều 37 Bộ luật dân sự 2005 , quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm ,uy tín là một quyền nhân thân của cá nhân. Mỗi cá nhân có quyền đối với danh dự, nhân phẩm ,uy tín của mình và đồng thời cũng có nghĩa vụ phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm ,uy tín của người khác . Điểm đặc biệt của quyền này so với các quyền nhân thân khác là ở chổ quyền này được tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối . Dù trong bất kỳ trường hợp nào pháp luật cũng không cho phép xâm phạm đến danh dự,nhân phẩm ,uy tín của cá nhân. Vì vậy , không ai có thể viện bất kỳ lý do nào để bào chữa cho hành vi xâm phạm đến quyền này, kể cả làm nhục kẻ phạm tội. 2.2.3.3 Quyền bí mật đời tư. Quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 ( điều 21) , trong Bộ luật dân sự 2005 (điều 38) và nhiều văn bản pháp luật khác liên quan. Tuy nhiên các văn bản này đều không định nghĩa như thế nào là “bí mật đời tư”. Tuy nhiên , chúng ta có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin liên quan tới cá nhân mà bản thân cá nhân đó không muốn để người khác được biết . Quyền bí mật đời tư là quyền của cá nhân đối với các thông tin bản thân họ không muốn tiết lộ. Theo quy định tại điều 38 Bộ luật dân sự 2005 thì ta có thể xác định nội dung của quyền bí mật đời tư như sau: - Cá nhân có quyền đối với các thông tin , tư liệu của mình: Có nghĩa là cá nhân có quyền công bố hoặc không công bố các thông tin liên quan tới bản thân họ ( Ví dụ : như hình ảnh, kỷ vật , chuyên tình cảm.) ; khi cá nhân không công bố có nghĩa là thông tin này được coi là bí mật . Bất kỳ hành vi tiết lộ nào mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đều bị coi là xâm phạm quyền bí mật đời tư. - Cá nhân có quyền bí mật đối với thư tín , điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác: Có nghĩa là thư tín , điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân chứa đựng những thông tin được chuyền tải giữa người gửi và người nhận thì chỉ có người gửi và người nhận biết . Pháp luật bảo vệ quyền bí mật này của cá nhân. Nhưng người khác không có quyền can thiệp vào nội dung thông tin này . Tuy nhiên , việc bí mật các thông tin trong thư tín và các hình thức thông tin khác cũng chịu sự giới hạn của pháp luật trong một số trường hợp cần thiết . Ví dụ: trong trường hợp quy định tại điều 140 Bộ luật tố tụng dân sự : “ Khi cần phải thu thập tài liệu , đồ vật liên quan tới vụ án thì có thể khám thư tín , điện tín , bưu phẩm .của người khác” . Hoàn thiện pháp luật về đời tư và quyền bí mật đời tư là một trong những nhu cầu cấp bách hiện nay , bởi lẽ trong thời gian gần đây có nhiều vụ việc liên quan tới bí mật đời tư đã gây xôn xao dư luận, thậm chí có cả vụ việc đã Tòa án giải quyết như công bố danh tính những người giàu nhất Việt Nam , công khai thuế thu nhập cá nhân, công khai chuyện ly hôn của cá nhân trên các phương tiện thông tin đại chúng . Hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư đa dạng , đó có thể là tiết lộ thông tin bí mật , có thể là chiếm đoạt hoặc hủy hoại thông tin. Tùy thuộc vào hành vi xâm bí mật đời tư, người xâm phạm có thể bị xử lý hành chính , bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoăc phải bồi thường thiệt hại. 2.2.4 Quyền nhân thân liên quan đến thân thể con người. 2.2.4.1 Quyền hiến bộ phận cơ thể sống , quyền nhận bộ phận cơ thể. Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể :Quyền này được ghi nhận tại điều 33 của Bộ luật dân sự năm 2005 . Đây thật sự là một quyền rất mới mẻ đối với nước ta và có ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện nay . Đầu tiên, ta phải hiểu “ Hiến bộ phận cơ thể là việc cá nhân tự nguyện cho bộ phận cơ thể mình khi không còn sống . Trong đó bộ phận cơ thể được hiểu là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định” . Quyền hiến mô , bộ phận cơ thể của cá nhân thể hiện ở những nôi dung sau: - Nguyên tắc của việc hiến mô , bộ phận cơ thể phải xuất phát từ sự tự nguyên của người hiến và hướng tới mục đích nhân đạo. Bởi lẽ cá nhân được pháp luật bảo vệ quyền tự do thân thể cũng như quyền bất khả xâm phạm thân thể nên việc hiến mô, bộ phận cơ thể phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này .Sự tự nguyện của người hiến được thể hiển ở việc người hiến chủ động thể hiện ý chí độc lập của mình khi quyết định cho các bộ phận trên cơ thể mình mà không bị chi phối của bất kỳ yếu tố nào thông qua đơn hiến mô, bộ phận cơ thể gửi tới trạm y tế. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước đều xác định rõ mục đích của việc hiến mô, bộ phận cơ thể phải từ mục đích nhân đạo, phi thương mại .Tức là việc hiến mô , bộ phận cơ thể phải phục vụ mục đích giảng dạy , chữa bệnh ,nghiên cứu .Không nhằm mục đích thương mại. – Về độ tuổi của người hiến : Để đảm bảo yếu tố tự nguyện cũng như sức khỏe của người hiến mô ,bộ phận cơ thể thì người hiến phải đủ 18 tuổi trở lên ,có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. - Các cơ sở y tế là nơi tiếp nhận đơn của những người có nhu cầu hiến mô, bộ phận cơ thể. - Cá nhân thể hiện nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể thông qua đơn gửi đến cơ sở y tế chính là việc cá nhân đã đăng ký iến mô, bộ phận cơ thể . Việc đăng ký này có hiệu lực kể từ khi cơ sở y tế nhận được đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể của người hiến. - Để khuyến khích việc hiến mô, bộ phận cơ thể chúng ta cũng cần những chính sách ưu tiên hoặc những quyền lợi nhất định đối với người hiến như cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí , được chăm sóc sức khỏe định kỳ .. Quyền nhận mô, bộ phận cơ thể : Điều 35 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “ Cá nhân có quyền nhận mô,bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình” . Đây cũng là một quyền mới được quy định trong Bộ luật dân sự . Theo điều luật trên thì mục đích của việc nhận mô , bộ phận cơ thể là để chữa bệnh không có mục đích nào khác . Quyền nhận mô, bộ phận cơ thể liên quan mật thiết với hoạt động lấy mô, bộ phận cơ thể và ghép mô, bộ phận cơ thể trong đó lấy mô và ghép mô được hiểu như sau: - Lấy mô, bộ phận cơ thể là việc tách mô , bộ phận cơ thể người khi còn sống. - Ghép mô , bộ phận cơ thể người là việc cấy ghép mô , bộ phận cơ thể tương ứng của người hiến lên cơ thể người được ghép . Có thể nói rằng việc thừa nhận quyền được nhận mô, bộ phận cơ thể là quyền có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa nhân đạo lớn lao. Quyền này trở thành cơ hội được sống của nhiều người bệnh , đồng thời cũng tạo điều kiện cho ngành ghép tạng của Việt Nam phát triển ngang tầm quốc tế. 2.2.4.2 Quyền hiến xác , bộ phận sau khi chết. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp , Bộ luật dân sự 2005 đã quy định hiến xác , bộ phận cơ thể như một quyền nhân thân tại điều 34 nư sau: “ Cá nhân có quyền hiến xác , bộ phận cơ thể của mình sau khi chết”. Việc ghi nhận quyền hiến xác , bộ phận cơ thể không những là bước tiến mới trong pháp luật dân sự Việt Nam , mà còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn.Nó tạo ra hàng ngàn cơ hội sống sót và chữa bệnh
Tài liệu đính kèm: