1.Tác giả:
1.1 Cuộc đời:
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, con cụ
Nguyễn Đình Huy và bà Trương Thị Thiệt. Ông sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh,
phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và mất ngày 3 tháng 7 năm
1888 tại Ba Tri, Bến Tre.
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu sớm trải qua những ngày gia biến và quốc biến hãi hùng, chính
điều đó đã tác động đến nhận thức của ông
Năm1833, Nguyễn Đình Huy (cụ thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu) đã gửi Nguyễn Đình Chiểu
cho một người bạn ở Huế để ăn học. Năm 1843 ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định lúc ông 21 tuổi,
năm 1846, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu năm 1849. Nhưng sau đó, mẹ ông mấ t, ông trở
về chịu tang mẹ, dọc đường vất vả lại thương mẹ khóc nhiều, ông bị bệnh, đau mắt nặng rồi bị mù
cả hai mắt. Về quê, chịu tang mẹ xong,ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy, ông mở
trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh, sống giữa tình thương của mọi người. Về sau, có người học
trò cảm nghĩa đã gả em gái của mình cho thầy. Nhân dân thường gọi ông là Đồ Chiểu hay Tú Chiểu.
Văn bản VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC Nguyễn Đình Chiểu 1.Tác giả: 1.1 Cuộc đời: Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, con cụ Nguyễn Đình Huy và bà Trương Thị Thiệt. Ông sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và mất ngày 3 tháng 7 năm 1888 tại Ba Tri, Bến Tre. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu sớm trải qua những ngày gia biến và quốc biến hãi hùng, chính điều đó đã tác động đến nhận thức của ông Năm1833, Nguyễn Đình Huy (cụ thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu) đã gửi Nguyễn Đình Chiểu cho một người bạn ở Huế để ăn học. Năm 1843 ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định lúc ông 21 tuổi, năm 1846, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu năm 1849. Nhưng sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vất vả lại thương mẹ khóc nhiều, ông bị bệnh, đau mắt nặng rồi bị mù cả hai mắt. Về quê, chịu tang mẹ xong,ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy, ông mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh, sống giữa tình thương của mọi người. Về sau, có người học trò cảm nghĩa đã gả em gái của mình cho thầy. Nhân dân thường gọi ông là Đồ Chiểu hay Tú Chiểu. Năm 1859, khi Pháp nổ súng xâm chiếm Gia Định, ông đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri, Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Vốn nhiệt tình yêu nước, ông liên hệ mật thiết với nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương kích động lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân. Biết ông là người có uy tín lớn, Pháp nhiều lần mua chuộc nhưng ông vẫn nêu co khí tiết, không chịu khuát phục. Năm Mậu Tí 1888, ngày 24-5 âm lịch, ông mất, thọ 66 tuổi. Cả nước đều thương tiếc kính trọng ông. 1.2 Sự nghiệp thơ văn: 1.2.1 Những tác phẩm chính: -Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ nôm. -Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn: +Giai đoạn đầu: .Truyện Lục Vân Tiên .Dương Tử- Hà Mậu =>truyền bá đạo lý làm người. +Giai đoạn sau: .Ngư Tiều y thuật vấn đáp .Một số văn tế, thơ Nôm như: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh.. Bằng ngòi bút, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức, chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. (Dương Tử-Hà Mậu) 1.2.2 Nội dung thơ văn -Lý tưởng đạo đức, nhân nghĩa - Lòng yêu nước thương dân 1.2.3 Nghệ thuật thơ văn Có đóng góp quan trọng, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Thơ văn của ông cũng đậm đà bản sắc Nam Bộ Lối thơ thiên về kể trong các truyện của ông cũng mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ. =>Người Việt Nam đánh giá ông không những là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà yêu nước, một nhà văn hóa Việt Nam của thế kỉ 19 Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm về văn chương riêng. Quan điểm “văn dĩ tải đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế, đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu. Quan điểm ấy tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái. 2. Tác phẩm 2.1 Văn tế: Là một loại văn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ sự thương tiếc đối với người đã mất. Thường có hai nội dung cơ bản: kể lại cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất, và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. 2.2 Hình tượng người nông dân, nghĩa sĩ Hai câu đầu (phần lung khởi): mở đầu bài văn tế, tác giả đã cất lên một tiếng than lay động lòng người. Người nghĩa sĩ xuất hiện lên trong khung cảnh bão táp của thời đại: biến cố chính trị lớn lao chi phối toàn bộ thời cuộc là sự xâm lăng của thực dân và ý chí kiên cường bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta “lòng dân trời tỏ”. Đối đầu với “súng giặc” nhân dân chỉ có tấm lòng yêu nước => làm nên tính chất bi tráng của cuộc chiến đấu, đầy bi kịch nhưng cũng vô cùng vĩ đại. Nhân dân quyết định chết vì “ơn vua”- “nợ nước” đó là cái chết vì nghĩa lớn. Câu văn mang tư tưởng trung quân nhưng thực chất là tư tưởng yêu nước. Cái nghĩa ở đây là nghĩa lớn với đất nước. Vì vậy mà cái chết thành bất tử “thác coi như ngủ”. a) Hình ảnh người nông dân trong cuộc sống bình thường. - Người nông dân chân thật, lam lũ với cuộc sống.( Câu 4 ) - Người nông dân tự ngàn đời vẫn là con người chất phát quê mùa: cuộc sống diễn ra trong lũy tre làng, với những công việc đồng áng. - Trong rất nhiều điều người nông dân chưa biết, tác giả chỉ nhấn mạnh đó là việc binh đao, trận mạc.( Câu 5 ) => Nhấn mạnh đặc điểm này nhằm tạo sự đối lập để tôn cao tầm vóc người anh hùng ở phần sau. b) Chuyển biến của người nông dân khi giặc xâm lược đất đai bờ cõi của cha ông. - Khi giặc đến, ban đầu người nông dân cũng hồi hộp lo sợ họ chỉ biết trông cậy vào triều đình. Bởi lẽ họ chưa biết giặc là ai chỉ biết đó là lũ người xấu xa và họ ghét. - Ngày một ngày hai nhìn thấy ke thù nghênh ngang trên đất nước mình họ cảm thấy nhức nhối. Cái “ghét” lúc trước đến nay đã trở thành lòng căm thù muốn giết chết chúng “muốn tới ăn gan-muốn ra cắn cổ”. - Người nông dân nhận thức sâu sắc về chủ quyền của quốc gia và chính nghĩa của dân tộc, nhận thức được bản chất của kẻ thù xâm lược và ý thức trách nhiệm của bản thân với sự nghiệp cứu nước. “ Một mối xa thơ đồ sộbán chó”. - Tình cảm mãnh liệt nhận thức sâu sắc và tất cả nay đã biến thành hành động. Người dân tự nguyện đứng lên vì nghĩa đánh giặc “ Nào đợi ai đòi ai bắt,tay bộ hổ”. => Hình ảnh người nông dân chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ nhỏ đến lớn lao, từ bình thường đến phi thường. Họ hiện ra trong hình tượng người nghĩa sĩ. c) Vẽ đẹp hào hùng của những nghĩa sĩ áo vải trong “ Trận nghĩa đánh Tây”. - Người nghĩa sĩ bước vào trận đánh trong hình ảnh người nông dân đi đánh giặc “Vốn chẳng phải quân cơ quân vệgươm đeo” đều không có. - Họ bước vào trận đánh như mang theo tất cả hơi thở của ruộng đồng, với những vật dụng bình thường thô sơ: tầm vong, lưỡi dao phay,...Nhưng tấm lòng mến nghĩa đã biến những dụng cụ thô sơ ấy thành thứ vũ khí lợi hại lập nên những chiến công lớn: đốt xong chỗ dạy đạo kia, chém đặng thằng quang hai nọ => Chiếm được đồn Cần Giuộc, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ. - Hình tượng người anh hùng được khắc trên cái nền một trận tiến công đồn rất náo nhiệt đầy khí thế.Ngòi bút của tác giả đã hào hứng miêu tả trận đánh với nhiều biện pháp nghệ thuật : + Tạo hình ảnh đối lập giữa ta và địch. Mặc dù vũ khí thô sơ nhưng mang lại chiến thắng lớn “ Hỏa maihai nọ” điệp từ cũng nằm giữa hai ý đối lập nhau càng có tác dụng nhấn mạnh. + Dùng các từ đặc biệt, rất nhiều động từ chỉ hành động mạnh ( Đánh, đốt , chém, đạp), dứt khoát ( đốt xong, chém đặng, trối kệ,), dùng từ đan chéo để tăng cường độ (đâm ngang- chém dọc,). + Câu văn trải dài ngắt thành nhiều vế, nhịp câu ngắn gọn, => Tất cả tạo nên một không khí khẩn trương,sôi động, quyết liệt. => Việc miêu tả hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ thể hiện tầm cao tư tưởng và tình cảm của tác giả: ông đã ca ngợi bản chất cao quý vẫn tiềm ẩn sau những mảnh áo vải cuộc đời vất vả,lam lũ của người nông dân đó là lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc. * Nghệ thuật miêu tả trận tấn công đồn: tác giả đã dựng lên một tượng đài nghệ thuật vừa hoành tráng lại mang nét mộc mạc chân chất của người dân Nam Bộ- nét đẹp của lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc. 2.3 Thái độ và tình cảm của tác giả a) Nỗi xót thương đối với người liệt sĩ: Nỗi xót thương có pha lẫn nhiều nỗi niềm. - Nỗi xót thương có sự tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành. (câu 16, 23) - Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thất không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ. (câu 24) - Nỗi căm hờn những kẻ đã gây ra những cảnh éo le. (câu 20) - Hòa chung với tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước dân tộc. (câu 26) Nhiều niềm cảm thương ấy cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm ở cây cỏ, sông núi, sông Cần Giuộc, chợ Trường Bình, chùa Tôn Thạnh, Bến Nghé, Đồng Nai,..tất cả đều nhuốm màu tang tóc bi thương. b) Niềm cảm phục và tự hào: - Tác giả bày tỏ niềm cảm phục và tự hào đối với những người dân thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, bát cơm, manh áo của mình, chống lại kẻ thù hung hãn. (câu 18, 19) - Đối lập với lẽ sống cao đẹp của người nghĩa sĩ là lối sống tầm thường, ô nhục của những kẻ bán nước theo giặc. Tác giả không tiếc lời chửi rủa bọn người này. (Câu 21) - Tác giả ca ngợi những người nông dân Cần Giuộc đã lấy cái chết làm rạng danh một chân lí cao đẹp mọi thời đại “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”. (câu 22) - Tác giả ca ngợi, biểu dương công trạng của người liệt sĩ đời đời nhân dân ngưỡng mộ, Tổ quốc ghi công. (Câu 25, 27) Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư của tác giả mà ông đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng người liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ hướng về cái chết mả còn hướng về cuộc sống đau thương, khổ nhục của cả dân tộc trước làn sóng xâm lược của thực dân. Nò không chỉ gợi nỗi đau mà còn kích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp tục sự nghiệp dang dở của những người nghĩa sĩ. Hai câu cuối: tác giả gạt đi màu sắc của tư tưởng trung quân, câu văn ca ngợi sự bất tử của những người nghĩa sĩ. Họ vẫn như đang còn sống, đang có mặt trong cuộc chiến đấu của nhân dân chống xâm lược. 3.Ý nghĩa của tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 tháng 2, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn. Chủ đề của bài văn tế là ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần quả cảm của những người nghĩa sĩ- nông dân Cần Giuộc, từ đó khẳng đinh lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng xả thân vì nghĩa của con người Việt Nam, đồng thời thể hiện tấm lòng tác giả đối với những con người ấy. Tấm lòng yêu nước của Nguyển Đình Chiểu cũng ngời sáng như tấm gương nhửng người nghĩa sĩ. * Tổng kết: tác phẩm là tiếng khóc cao cả, thiêng liêng cho một thời kì lịch sử đau khổ của cả dân tộc, là bức tượng đài bi tráng về những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc. Bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính chất hiện thực, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu sức biểu cảm. 4. Sơ đồ của tác phẩm Nhân dân là hình tượng nghệ thuật của bài thơ VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC Hình thức đối ngẫu Cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người nghệ sĩ Cần Giuộc Ca ngợi tấm gương hi sinh tự nguyện của những người yêu nước Khắc hoạ vẻ đẹp bên ngoài: bình dị, đời thường Vẻ đẹp bên trong: tinh thần xả thân vì nghĩa, dũng cảm, hiền lành, chất phác Hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghệ sĩ Thái độ cảm phục, niềm xót thương vô hạn của tác giả Thể hiện cách trang trọng nỗi đau, sự mất mát của cả dân tộc trước sự hi sinh anh dũng => Nỗi bật phẩm chất của người nghệ sĩ Lời thương tiếc người chết của tác giả và người thân nghĩa sĩ Ca ngợi lòng yêu nước tinh thần quả cảm của ngững người nghĩa sĩ Thể hiện được tấm lòng của tác giả. Hình tượng người nghĩa sĩ là tượng đài nghệ thuật sừng sững. Lòng yêu nước, sẵn sang hy sinh của con người Việt Nam Tình cảm xót thương của nười đứng tế đối với linh hồn người đã khuất. Tổng kết
Tài liệu đính kèm: