Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí THPT

TÓM TẮT SÁNG KIẾN

Trước những yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục, đặc biệt là hiện nay một trong những năng lực cơ bản, quan trọng mà học sinh cần được hình thành trong quá trình học tập môn Địa lí là năng lực sử dụng bản đồ. Bằng cố gắng của bản thân, kinh nghiệm học hỏi được trong quá trình dạy học của bạn bè, đồng nghiệp, tôi muốn đưa ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học môn Địa lí ở trường THPT nhằm biến môn Địa lí trở thành "niềm vui" với các em học sinh, giúp các em yêu thích môn học hơn.

Nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí giúp cho học sinh khai thác kiến thức, hình thành các kĩ năng cơ bản trên cơ sở hiểu được bản chất của vấn đề để từ đó có thể sử dụng thành thạo bản đồ trong quá trình học tập cũng như ngoài thực tế cuộc sống. Thông qua bản đồ giúp cho bài giảng của thầy (cô) trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn đối với học sinh.

Để dạy học Địa lí trên cơ sở bản đồ có hiệu quả, sáng kiến đã đưa ra các biểu hiện của việc sử dụng bản đồ một cách hiệu quả; những định hướng cơ bản trong quá trình dạy học Địa lí trên cơ sở bản đồ; các kĩ năng cơ bản cần được hình thành và các mức độ năng lực khi sử dụng bản đồ đối với từng đối tượng học sinh từ đó đưa ra các gợi ý về các phương pháp dạy học trên cơ sở sử dụng bản đồ nhằm khai thác bản đồ một cách hiệu quả.

 

doc 31 trang Người đăng hanhnguyen.nt Lượt xem 2102Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p với khả năng tiếp thu của học sinh, (nhất là đối với bài dài, bài khó, nhiều kiến thức mới). Bồi dưỡng kỹ năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học trong các bài trước trên cơ sở sử dụng bản đồ, hạn chế ghi nhớ máy móc.
Thứ hai, giáo viên phải là người làm chủ lớp học trong suốt quá trình hướng dẫn học sinh trên cơ sở sử dụng bản đồ, thiết lập bầu không khí thân thiện tích cực, chủ động giải quyết mọi tình huống bảo đảm yêu cầu sư phạm.
Thứ ba, giáo viên sử dụng hợp lý sách giáo khoa (không đọc chép, hướng dẫn học sinh chỉ ghi theo diễn đạt của giáo viên, không để học sinh đọc theo sách giáo khoa để trả lời câu hỏi) và sử dụng có hiệu quả bản đồ. Ở một số bài phải làm rõ mối liên hệ dọc theo mạch kiến thức môn học và mối quan hệ môn với các môn học khác để khắc sâu kiến thức.
Thứ tư, giáo viên cần phải tích luỹ, khai thác sử dụng hồ sơ chuyên môn, liên hệ thực tế sinh động để làm sâu sắc thêm bài giảng, giao bài tập, chủ đề về nhà để rèn luyện kỷ năng tự học, tự nghiên cứu cho học sinh trên cơ sở sử dụng bản đồ.
Thứ năm, giáo viên nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết, dẫn dắt học sinh tự đưa ra kết luận cần thiết. Dạy phải sát đối tượng, coi trọng bồi dưỡng học sinh khá giỏi và kiên trì giúp đỡ học sinh học lực yếu kém, chưa có kĩ năng sử dụng bản đồ trong quá trình học Địa lí.
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị thiết bị dạy học khác, chủ động sưu tầm chọn lọc tư liệu liên hệ thực tế, nắm bắt các kỹ năng và kỹ thuật dạy học cần thiết (kỹ năng sử dụng thiết bị, viết bảng, vẽ hình, kỹ năng diễn giải, kỹ năng lôi cuốn chú ý, kỹ năng thao tác mẫukỹ năng tiến hành các hoạt động dạy học cụ thể; dạy học vi mô, dạy học theo nhóm, dạy học theo dự án, dạy học nêu vấn đề, trình bày theo cấu trúc)
4.3. Các kĩ năng cần được hình thành trong quá trình sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí.
4.3.1. Nhận thức khái quát về bản đồ
Học sinh nhận thức được bản đồ là gì, đặc trưng, tính chất của nó ra sao, mỗi kí hiệu qui ước trên bản đồ có nghĩa gì, cần phải sử dụng bản đồ như thế nào, lợi ích của việc này ra sao....
Dạy học sinh nhận thức khái quát về bản đồ còn bao gồm cả một số kĩ năng đầu tiên cần hình thành cho học sinh, đó là các kĩ năng: Xác định phương hướng, đo độ cao, độ dốc trên bản đồ.
Dạy học sinh nhận thức khái quát về bản đồ thông qua các bài học địa lí trong chương I “Bản đồ” ngay từ đầu năm lớp 10- THPT, làm cho học sinh thấy thích, thấy cần thiết sử dụng bản đồ khi vừa mới làm quen với địa lí THPT.
4.3.2. Quy trình sử dụng bản đồ
	Đọc và hiểu bản đồ thường gắn liền với nhau giống như đọc sách vậy, nhưng đọc sách là đọc ngôn ngữ viết, còn đọc bản đồ thực chất là đọc ngôn ngữ bản đồ, do đó cần phải có vốn kiến thức về ngôn ngữ bản đồ mới đọc được lưu loát được.
 4.3.2.1. Đọc bản đồ
- Đọc tên bản đồ để hiểu không gian bao quát trên bản đồ, nội dung địa lí và thời gian biểu hiện đối tượng lên bản đồ.
- Đọc lưới chiếu, tỉ lệ và bố cục bản đồ
+ Đọc lưới chiếu để hiểu quy luật biến dạng chung của nó trên lưới chiếu bản đồ.
+ Đọc tỉ lệ để hiểu mức độ thu nhỏ của các đối tượng địa lí so với thực tế.
+ Đọc bố cụ bản đồ để thấy sự sắp xếp, bố trí không gian bản đồ, các yếu tố nội dung, yếu tố hỗ trợ, yếu tố bổ sung và vị trí của từng yếu tố trong việc khai thác kiến thức trên bản đồ.
- Đọc bản chú giải
+ Cấu trúc cảu bản chú giải thường theo trình tự: nội dung chính được giải thích trước, nội dung phụ được giải thích sau và các yếu tố khác giải thích sau cùng. Đọc bản chú giải theo trình tự trên.
+ Đọc nội dung bản đồ thiết kế trong bản chú giải tức là giải mã của các kí hiệu bản đồ, nói cách khác- chúng ta đọc ngôn ngữ bản đồ.
Ngoài ra, đọc bản đồ cũng cần chú ý sự tương ưng giữa không gian kí hiệu và không gian chiếm giữ của các đối tượng địa lí trong thực tế, sự lặp lại không gian của các đối tượng có trong thực tế rất quan trọng trong sử dụng bản đồ, mối quan hệ xa gần, cao thấp, to nhỏ so với các đối tượng địa lí chung quanh.
+ Đọc các chỉ tiêu định tính (các vùng trồng trọt, chăn nuôi các loại đất, các vùng kinh tế,) rồi đối chiếu với sự phân bố của nó trên bản đồ. Sự phân bố liên tục, chồng chéo, lặp lại hay phân bố gián đoạn, ngắt quãng,
+ Đọc các chỉ số số lượng tương ứng với nền màu rồi nghiên cứu sự biến đổi của nó trong không gian, sự biến đổi liên tục hay ngắt quãng,
+ Đọc quy mô hiện tượng được biểu hiện thông qua biểu đồ (biểu đồ cột, biểu đồ tròn, biểu đồ miền,) đặt tại vị trí cụ thể hay đặt trong lãnh thổ.
+ Đọc quá trình phát triển hiện tượng thông qua biểu đồ lồng vào nhau, biểu đồ diễn giải hiện tượng biến đổi theo thời gian đặt trên bản đồ.
Ví dụ: Bài 10 - Cộng hòa nhân dân Trung Hoa - Trung Quốc.
Dựa vào bản đồ tự nhiên Trung Quốc, kể tên các đồng bằng châu thổ lớn của Trung Quốc.
Học sinh dựa vào bản đồ tự nhiên kể tên được 4 đồng bằng lớn: Đồng bằng Đông Bắc, đồng bằng Hoa Bắc, đồng bằng Hoa Trung và đồng bằng Hoa Nam.
4.3.2.2. Hiểu bản đồ.
- Hiểu các khu vực biến dạng trên bản đồ: khu vực không có sai số chiếu hình, khu vực sai số về góc, khoảng cách, diện tích ít, nhiều.
- Hiểu mỗi nội dung địa lí được lựa chọn một phương pháp biểu hiện bản đồ cụ thể, nghĩa là đằng sau các kí hiệu, đường nét, màu sắc, chữ viết, nói lên điều gì. Những kí hiệu điểm, đường, diện, ví dụ, kí hiệu hình học, kí hiệu biểu đồ, kí hiệu cây, con, kí hiệu biểu hiện bằng nền màu, kẻ vạch,nằm trong phương pháp biểu hiện bản đồ nào, nó biểu hiện quy luật phân bố hiện tượng địa lí nào. Xác định mối quan hệ giữa các đối tượng có trên bản đồ tự nhiên, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, môi trường,. Hiểu đầy đủ cách ghi chú giải, giải thích trực tiếp trên bản đồ.
Ví dụ: Dạy bài 8: Liên Bang Nga
Nói tới dãy núi Uran, ngoài việc xác định được vị trí của nó, học sinh còn phải xác định được chiều dài, độ cao, hướng núi...Nói chung ở mức độ này học sinh phải mô tả được các đối tượng địa lí trên bản đồ với các đặc điểm chung của chúng.
4.3.2.3. Sử dụng bản đồ.
	Sử dụng bản đồ là sử dụng ngôn ngữ bản đồ giải quyết các nhiệm vụ:
- Mô tả lãnh thổ địa lí, đo tính trên bản đồ tìm cứ liệu khoa học.
- Tìm nguyên nhân, lí giải sự phân bố, sự phát triển của các hiện tượng.
- Xác lập các mối quan hệ địa lí trên một bản đồ, trên xêri bản đồ hoặc át lát đẻ hiểu các quy luật địa lí.
- So sánh, phân tích, tổng hợp các hiện tượng, các mối quan hệ địa lí để phát hiện các quy luật địa lí tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Chồng xếp bản đồ, xác định các vùng địa lí tổng hợp.
- Dựa vào bản đồ để giải quyết mọi vấn đề địa lí nảy sinh trên lãnh thổ.
4.3.3. Rèn luyện kĩ năng bản đồ
Nhằm giúp cho học sinh, sinh viên sử dụng bản đồ có hiệu quả trong học tập địa lí ở các cấp học và bậc học, giáo viên cần chú ý rèn luyện thường xuyên các kĩ năng bản đồ dưới đây:
- Rèn luyện kĩ năng nhận biết, chỉ và đọc tên các lãnh thổ, các đối tượng địa lí.
- Rèn luyện kĩ năng xác định toạ độ địa lí của một điểm trên bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng đo tính khoảng cách, đo tính biểu đồ và đồ thị biểu hiện trên bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng xác định vị trí địa lí của một lãnh thổ trên bản đồ (toạ độ địa lí của các điểm cực đong, tây, nam, bắc của lãnh thổ và giáp giới các lãnh thổ bên cạnh ).
- Rèn luyện kĩ năng tính độ cao, độ sâu trên bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng đọc lát cắt địa hình, đọc và nhận xét biểu đồ, khai thác kiến thức trên các bức tranh ảnh vad phân tích, nhận xét các bảng biểu số liệu
- Rèn luyện kĩ năng mô tả từng yếu tố địa lí tự nhiên (địa hình, địa chất, khí hậu, thuỷ văn, thổ nhưỡng, sinh vật), từng yếu tố kinh tế - xã hội (dân cư, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải,thương mại du lịch),tiến tới mô tả tổng hợp một lãnh thổ địa lí (một khu vực, một quốc gia, một châu lục). Đây là kĩ năng cao nhất của việc sử dụng bản đồ.
4.3.4. Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp
4.3.4.1. Phương pháp so sánh.
Theo ý nghĩa phổ biến nhất, so sánh là biệp pháp logic xác định những điểm khác nhau giữa các đối tượng giống nhau và sự giống nhau giữa các đối tượng khác nhau. So sánh không thể lấy để giải thích sự giống nhau và khác nhau giữa các các đối tượng, nhưng nó lại tạo tiền đề cần thiết để giải thích chúng. Nó là một phương pháp khoa học phổ biến, nó có rất nhiều dạng thể hiện đặc biệt và cá biệt trong tất cả các ngành khoa học và tham gia với tư cách yếu tố cần thiết trong các phương pháp nhận thức khoa học khác phức tạp hơn (phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá và nhiều phương pháp khác nữa).
Trong việc sử dụng phương pháp khoa học này, môn Bản đồ có vai trò rất lớn trong các so sánh địa lí được thừa nhận là một nguyên tắc bất di bất dịch. Điều đó đã được S.V.Kalesnik khẳng định: “khoa học bản đồlàcả một phương pháp lớn để nghiên cứu so sánh và tổng quan các hiện tượng địa lí trong không gian và thời gian, ở thể tĩnh và thể động ”.
So sánh khoa học chỉ có ý nghĩa trong trường hợp nếu nó được tiến hành giữa những hiện tượng có liên hệ với nhau theo các dấu hiệu cơ bản của chúng chứ không phải các dấu hiệu ngẫu nhiên. Ngoài ra, trong mỗi sự so sánh khâu quan trọng là: “ Cơ sở so sánh” , tức là hoàn cảnh nổi lên với vai trò các điều kiện tồn tại thực tế giống nhau hoặc khác nhau được xác lập bởi sự so sánh.
Dạng bản đồ so sánh có đặc thù riêng.Nó là cái không gian trong thời gian và là cái thời gian trong không gian của các mặt nghiên cứu nội dung muôn hình vạn trạng của đối tượng địa lí. Vì vậy, các dạng so sánh bản đồ và so sánh địa lí là thống nhất nhưng không phải là đồng nhất.Bởi vì chúng nằm trong trong sự thống nhất về đối tượng so sánh, nhưng lại khác nhau về ngôn ngữ thực hiện quá trình so sánh và về các đặc thù hoạt động. Dạng địa lí so sánh là dạng cao hơn dạng bản đồ so sánh, nhưng dạng địa lí dựa trên cơ sở không chỉ kho tàng kinh nghiệm của mình, mà còn ngay trên trên tài liệu của dạng bản đồ so sánh, dạng so sánh bản đồ thường xảy ra trước dạng so sánh địa lí về mặt thời gian.So sánh bản đồ không tách rời khỏi quá trình biên vẽ bản đồ,có mục đích định hướng phục vụ việc so sánh và chỉ sau biên vẽ bản đồ biểu thị cả sự giống nhau lẫn khác nhau bằng ngôn ngữ của mình,thì dạng so sánh đị lí mới bắt đầu hoạt động nhằm khám phá các qui luật trong những điểm giống nhau và khác nhau để tiếp tục tổng quát hoá và giải thích chúng.
Mỗi sự so sánh đều được thực hiện trong mối liên hệ logic nhất định giữa các cơ sở so sánh và các mặt được so sánh ở các hiện tượng. Ý nghĩa logic so sánh có thể được gợi ý bởi tính quy luật chung đã xác lập từ trước cũng như bởi giả thiết đặt ra về dự đoán sự tồn tại của tính quy luật. Bằng sự so sánh có thể các định hình thức đặc trưng cụ thể biểu lộ tính quy luật phổ biến cuãng như để xác nhận cho giả thiết.
Trong dạng bản đồ của phương pháp này, cơ sở so sánh là “Hoàn cảnh địa phương” hoặc là sự xác định không gian hay tổng hợp các điều kiện tự nhiên nào đó. Hoàn cảnh địa phương hiện ra trong hành vi so sánh như là điều kiện của các mối liên hệ qua lại, xuất phát từ sự giống nhau và khác nhau giữa các mặt so sánh của hiện thực được nghiên cứu.
	Hoàn cảnh địa phương như là cơ sở của dạng so sánh bản đồ (cũng như dạng so sánh địa lí) có cái chung (đồng nhất), cái giống nhau và cái khác nhau.
Theo cơ sở chung người ta so sánh những thay đổi thời gian giữa những mặt gắn bó với nhau của các hiện tượng trên cùng một địa phương (chẳng hạn diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên địa phương qua các năm).
Theo cơ sở giống nhau, người ta so sánh các hiện tượng cùng một loại trong những điều kiện giống nhau về hoàn cảnh địa phương và xác định sự giống nhau và khác nhau giữa chúng(chẳng hạn, sự khác nhau trong việc chuyên canh hoá nông nghiệp tại các vùng lãnh thổ có các điều kiện thổ nhưỡng nông nghiệp và khí hậu giống nhau).
Theo cơ sở khác nhau, người ta so sánh những mặt khác nhau của các hiện tượng thuộc một loại để làm bộc lộ ra những điểm khác biệt tương ứng hoặc sự giống nhau “ bất tương ứng” trong những điều kiện khác nhau về hoàn cảnh địa phương (chẳng hạn, cùng một nhiệt độ khí quyển vào một thời điểm nhất định tại các khu vực có hoàn cảnh địa phương khác nhau).
So sánh bản đồ (và địa lí) được thực hiện cả ba hướng đo đạc không gian và mở rộng ra tất cả các địa quyển của lớp vỏ địa lí.Các đối tượng so sánh trong sinh quyển (trên bề mặt Trái Đất), có thể có các hiện tượng tự nhiên cũng như hiện tượng xã hội.Trong các địa quyển khác là các hiện tượng tự nhiên (trong đó có cả loài người).Tất cả mọi hiện tượng so sánh biểu thị trong bản đồ đều được chiếu xuống bề mặt thuỷ chuẩn của Trái Đất (≈ mặt elipxôit thực dụng) phù hợp với sự biểu thị hoàn cảnh địa phương trên bề mặt vật lí của hành tinh.
Địa lí học so sánh các đối tượng nghiên cứu nhìn thấy cũng như không nhìn thấy bằng mắt có khoảng không gian không trực tiếp so sánh được,không chỉ vì các hiện tượng so sánh có khoảng không gian rộng lớn không thể bao quát bằng một tầm nhìn,mà do chúng không có các hình thù tồn tại nhìn thấy bằng mắt,do đó bản đồ là phương tiện duy nhất để so sánh không gian- thời gian và thời gian không gian (địa lí),là phương pháp nhận thức logic.
Chúng ta đi đến hết luận rằng,dạng bản đồ so sánh căn cứ vào các tính chất đặc thù của bản đồ dưới đây:
Theo ý nghĩa chung nhất,bản đồ là biểu thị sự giống nhau và khác nhau về các đặc điểm không gian của đối tượng và hiện tượng trong thế giới vật chất, nó là sự biểu hiện so sánh (toàn bộ nội dung của nó nằm ở dạng sẵn sàng để so sánh tức thời).
Phạm vi so sánh trên bản đồ không giới hạn,tuỳ theo mức độ cần thiết có thể vô cùng rộng về mặt không gian cũng như thời gian.
Bản đồ đảm bảo các điều kiện như sau để so sánh các đặc điểm không gian giữa các mặt bất kì của các hiện tượng nhìn thấy cũng như không nhìn thấy bằng mắt.
Khi so sánh theo bản đồ,quá trình tư duy phù hợp với việc tri giác bằng thị giác kết quả so sánh hoặc nguồn thông tin được so sánh.Bản đồ có thể đảm bảo so sánh (không gian-thời gian và thời gian –không gian) giữa các mặt nội dung của hiện tượng: định tính, định lượng và cấu trúc.Ngoài ra có thể có các chỉ số về tuổi ( bản đồ địa tầng), các hình thức và cường độ biểu hiện các quá trình trong các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Do có những thuộc tính đặc trưng trên đây mà chúng ta đã được dự tính trước khi biên vẽ bản đồ, nhằm thực hiện có mục đích định hướng dạng bản đồ so sánh các hiện tượng thuộc phạm vi nào đó.Điều đó được thể hiện ra ở việc lựa chọn chuyên đề và nội dung bản đồ, đảm bảo sẵn sàng phục vụ việc so sánh các mặt so sánh của đối tượng nghiên cứu cùng với cơ sở so sánh.Trong trường hợp này, người dùng bản đồ chủ động để tiến hành động tác so sánh. Nó vô tình hay hữu ý ràng buộc với người đọc các kết quả của sự so sánh khác nhau. Những bản đồ tỏ ra bị động trong việc so sánh khi nó không định hướng từ trước để tạo ra quá trình so sánh. Việc lựa chọn ra các mặt so sánh của các hiện tượng trong trường hợp này hoàn toàn phụ thuộc vào người đọc.
	Khi so sánh, đối chiếu có thể chọn ra đối tượng so sánh, chọn ra các khía cạnh so sánh, tìm ra sự giống nhau, khác nhau, cái chung, cái riêng, đánh giá, hơn kém, tìm nguyên nhân
4.3.4.2. Phương pháp phân tích.
Phân tích là phương pháp nhận biết logic, nó phân chia trong sự tư duy đối tượng nhận thức ra thành các bộ phận và những mặt cấu thành để nghiên cứu từng cái riêng biệt như là các yếu tố nguyên vẹn phức tạp.Phép biện chứng duy vật xem xét phân tích như là một trong số phương pháp đào sâu vô hạn quá trình nhận thức hiện thực, bởi vì mỗi đối tượng đều có tập hợp nhiều vô kể các bộ phận và các mặt.Những mặt này có thể đến với nhận thức con người bằng con đường phân tích, liên tục được đào sâu trong mỗi giai đoạn phát triển khoa học.Tất cả mọi ngành khoa học, trong đó có địa lí học và môn bản đồ đều sử dụng phép phân tích như thể là một yếu tố của phương pháp nhận thức chung trong phép biện chứng duy vật.
Chuyên để phân tích bản đồ là vô giới hạn về mặt không gian cũng như tầm sau nghiên cứu.Tính vô giới hạn không gian của hệ thống chuyên đề phân tích bản đồ trong các địa quyển của Trái Đất vượt khỏi giới hạn của lớp vỏ địa li. Vì thế, bên cạnh khái niệm chung về các bản đồ phân tích cần phải phân biệt khái niệm về bản đồ phân tích địa lí và bản đồ phân tích phi địa lí (thiên văn học)
Tính vô giới hạn của hệ thống chuyên đề phân tích bản đồ theo chiều sâu nghiên cứu gắn với điều kiện trong mỗi giai đoạn phát triển mới của khoa học, việc phân tích mới sâu hơn những bộ phận và những mặt đã được tách ra từ trước, có thể phát hiện ra những phần, những mặt mới mà các đặc điểm không gian- thời gian của chúng cần được biểu thị bằng dạng phân tích. Như vậy, quá trình thường xuyên đi sâu phân tích khiến cho việc mở rộng hệ thống chuyên đề các bản đồ phân tích theo chiều sâu,điều đó về phần mình lại làm cho việc phân tích logic lại càng sâu hơn nữa. Quá trình đi sâu phân tích nhìn chung không có điểm dừng trong nhận thức khoa học, cả trong địa lí học lẫn trong môn bản đồ học.
4.3.4.3. Phương pháp tổng hợp.
Tổng hợp là phương pháp nhận thức logic, nó liên quan một cách trực tiếp với việc phân tích và nó là sự kế tục. Hơn nữa, mỗi sự phân tích đều được tiến hành có chủ định nhằm để tổng hợp tiếp sau đó, nghĩa là sự thống nhất các yếu tố của đối tượng nhận thức đã được tách ra và nghiên cứu khi phân tích. Kết quả tổng hợp sẽ nhận thức được cái mới – bản chất khối thống nhất toàn vẹn, tức là quy luật liên kết nhất định giữa các yếu tố của nó. Từ phân tích đến tổng hợp trong một giai đoạn nghiên cứu và từ tổng hợp trở về lần phân tích mới ở giai đoạn nghiên cứu cao hơn. Quá trình phân tích bản đồ tiến tới tổng hợp bản đồ theo định kì được lặp lại ở trình độ tri thức tiếp theo nhau. 
Ví dụ: Dạy bài 5 : Một số vấn đề của Mĩ La Tinh
Học sinh dựa vào bản đồ tự nhiên Trung và Nam Mĩ để cho biết tại sao phía nam Mĩ La Tinh hình thành nên hoang mạc Patagama..
Học sinh nghiên cứu bản đồ và giải thích được
- Do có dòng biển lạnh chảy ven bờ
- Địa hình cao chắn gió ở phía Tây
- Là thung lũng khuất gió..........
4.4. Các năng lực chuyên biệt cần được hình thành trong quá trình học tập môn Địa lí trên cơ sở bản đồ
Mức 1: Đo đạc, tính toán được một số yếu tố sơ đẳng như độ cao, độ sâu, chiều dài, xác định được phương hướng, tọa độ địa lí của các đối tượng tự nhiên và kinh tế - xã hội trên bản đồ.
Mức 2: Mô tả được đặc điểm về sự phân bố, qui mô, tính chất, cấu trúc, động lực của các đối tượng tự nhiên và kinh tế - xã hội được thể hiện trên bản đồ.
Mức 3: So sánh được những điểm tương đồng và khác biệt giữa các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội được thể hiện trên bản đồ.
Mức 4: Giải thích được sự phân bố hoặc mối quan hệ của các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội được thể hiện trên bản đồ.
Mức 5: Sử dụng bản đồ để phục vụ các hoạt động trong thực tiễn như khảo sát, tham quan, thực hiện dự ánở một khu vực ngoài thực địa.
4.5. Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí
Tùy theo mức độ yêu cầu của câu hỏi trong bài mà giáo viên có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học. Dưới đây là cơ sở khi áp dụng các phương pháp và một số gợi ý sử dụng các phương pháp dạy học
4.5.1. Phương pháp đàm thoại gợi mở
Dùng phương pháp đàm thoại tiến hành trên cơ sở dùng bản đồ tại lớp rất sinh động, làm cho lớp học có không khí học tập tự giác, khích lệ các em suy nghĩ và sôi nổi tham gia bài giảng.
 Tuy nhiên để đảm bảo tốt phương pháp này, hệ thống câu hỏi đặt ra cần tính toán trên cơ sở tư duy và năng lực của học sinh so với thời gian của mỗi câu hỏi để đảm bảo kế hoạch giảng dạy về mặt thời gian. Những câu hỏi đặt ra ở lớp chỉ nên dùng những loại câu hỏi mà người trả lời chỉ cần đọc bản đồ, thông qua tư duy và tìm ra câu trả lời, không nên dùng những câu hỏi tính toán trên bản đồ mới trả lời được. Nếu tính toán đại khái sẽ gây cho học sinh thói quen tuỳ tiện, qua loa. 
Sau khi những câu hỏi đặt ra được lần lượt trả lời, thầy giáo hệ thống hoá và tổng kết vấn đề, đồng thời hướng dẫn học sinh bổ sung ngay trên bản đồ trong SGK, hoặc bản đồ học sinh chuẩn bị cho bài học những kết luận của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài 11: Khu vực Đông Nam Á (Địa lí lớp 11)
GV hướng dẫn học sinh để trả lời câu hỏi: Dựa vào bản đồ tự nhiên khu vực Đông Nam Á để tìm hiểu vị trí địa lí của khu vực Đông Nam Á?
Giáo viên đưa ra câu hỏi:
Khi trình bày vị trí địa lý các em cần trình bày những đặc điểm nào?
Một học sinh trả lời và giáo viên chuẩn kiến thức
- Tiếp giáp với các biển, đại dương nào?
- Tiếp giáp với các nước lớn và các nền văn minh nào?
Sau đó yêu cầu một học sinh khác trả lời dựa vào bản đồ tự nhiên:
- Nằm ở phía Đông Nam Châu Á từ 280B – 100N
- Tiếp giáp với hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương
- Là cầu nối giữa lục địa Á – Âu và lục địa Ôxtraylia
Từ đó yêu cầu một học sinh khác đánh giá ý nghĩa của vị trí địa lý:
- Thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế xã hội với các nước
- Phát triển tổng hợp kinh tế biển
- Có vị trí đại chính trị quan trọng, là nơi giao thoa giữa các nền văn hóa lớn trên thế giới.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ (Địa lí lớp 12)
Quan sát bản đồ: Bản đồ tự nhiên Việt Nam và cho biết: 
Đặc điểm cơ bản của địa hình Việt Nam?
HS quan sát bản đồ và trả lời câu hỏi.
4.5.2. Phương pháp thảo luận nhóm
Trong quá trình khai thác kiến thức từ bản đồ địa lí, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm có những ưu điểm sau:
Về phía học sinh:
- Giúp cho học sinh mở rộng, đào sâu thêm những vấn đề học tập trên cơ sở nhìn nhận chúng (các vấn đề) một cách có suy nghĩ, phân tích chúng có lí lẽ, có dẫn chứng minh họa, phát triển được óc tư duy khoa học.
- Giúp học sinh phát triển các kĩ năng nói, giao tiếp, tranh luận, bồi dưỡng các phương pháp nghiên cứu một cách vừa sức (như các phương pháp tìm đọc sách và tài liệu tham khảo, làm thí nghiệm...)
- Thông qua thảo luận có thể thay đổi quan điểm của cá nhân nhờ cách lập luận logic trên cơ sở các sự kiện, thông tin của các học sinh khác trong nhóm, lớp.
Về phía giáo viên: Quá trình thảo luận dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và học sinh, giúp giáo viên nắm được hiệu quả giáo dục về các mặt 

Tài liệu đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem THPT_12219167.doc