Tào liệu giáo dục chính trị

Chương mở đầu: NHẬP MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐỐI TƯỢNG HỌC TẬP

1. Khái niệm

1.1. Chính trị và môn học Giáo dục chính trị

Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.

Giáo dục chính trị là bộ phận của công tác tư tưởng của Đảng giáo dục, thực hiện việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Giáo dục chính trị gồm những nội dung cơ bản của các khoa học Triết học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của môn học

Mục tiêu chung:

Môn giáo dục chính trị nhằm giáo dục con người giác ngộ về chính trị, có tri thức khoa học về chính trị, hình thành thế giới quan và nhân sinh quan khoa học, hiểu biết về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, có ý thức trách nhiệm xây dụng chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

 

doc 78 trang Người đăng phammen30 Lượt xem 1109Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tào liệu giáo dục chính trị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 bạo nhất của nó là chủ nghĩa thực dân.
Từ những quan niệm trên, Hồ Chí Minh đã đưa ra một số định nghĩa về chủ nghĩa xã hội như sau:
Thứ nhất, xem chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống: Làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, mọi người đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục tiêu là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội được xem xét từ một mặt nào đó (như kinh tế, chính trị, văn hoá). Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta. Người viết: “lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em”.
1.3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu cao cả, là giá trị tinh thần quý nhất của người Việt Nam, là sự thể hiện tập trung của chủ nghĩa yêu nước và ý chí tự lực, tự cường Việt Nam. Truyền thống dân tộc đó đã được hun đúc ở Hồ Chí Minh vì vậy mà đấu tranh cho độc lập dân tộc là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Người xem mất độc lập, mất tự do, nô lệ là sự nhục nhã nhất của nhân cách con người tự do. Người nói: “Trên đời nhiều vạn điều cay đắng, cay đắng gì bằng mất tự do”.
 - Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu hướng tới, cơ sở đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vấn đề dân tộc được nhận thức và giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân. Do đó, cách mạng dân tộc dân chủ sau khi thắng lợi sẽ chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là bước phát triển tất yếu.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. 
2. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
2.1. Vai trò và bản chất của Đảng
- Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
 Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của đảng cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào công nhân châu Âu, V.I. Lênin nêu lên hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Khi đề cập sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. 
- Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh, không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được.
- Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân nhưng đồng thời cũng là Đảng của dân tộc và của nhân dân lao động Việt Nam.
2.2. Sự cần thiết phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh đặt ra như một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. 
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng, còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn. 
2.3. Nội dung công tác xây dựng Đảng
- Xây dựng Đảng về tư tưởng - lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi là nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành "cốt", trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội dung, bao gồm xây dựng đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị 
- Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
+ Hệ thống tổ chức của Đảng: Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
+ Về cán bộ, công tác cán bộ của Đảng, có các nội dung hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong đó, đức, phẩm chất là gốc. 
- Xây dựng Đảng về đạo đức
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân. 
 3. Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc 
 3.1. Về vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc 
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn trong đấu tranh cách mạng.
Trong từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết dân tộc là mục đích hàng đầu. 
Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu
 Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
3.2. Về nội dung, hình thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc 
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Khái niệm "dân", "nhân dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa là từng con người Việt Nam cụ thể và đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. 
Đại đoàn kết dân tộc cũng có ý nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Do đó, ai có tài, có đức, hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, nhân dân thì ta đoàn kết với họ.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người.
Đại đoàn kết là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân mà đại đa số nhân dân nước ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây, nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. 
 Liên minh công nông là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Sau này, Người bổ sung là lấy liên minh công nông và lao động trí óc làm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức tập hợp, xây dựng, tổ chức quần chúng
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, mọi người dân Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. 
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: 
- Mặt trận được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - lao động trí óc. 
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. 
- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác biệt. Do đó, Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái vì nước, vì dân; đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. 
4. Tư tưởng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
4.1 . Về Nhà nước của dân, do dân, vì dân 
Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo Hồ Chí Minh là Nhà nước thực hiện quyền lực của nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Nhân dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là toàn dân, là tất cả đàn ông, đàn bà, người già người trẻ, không phân biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn giáo, Người cho rằng “ trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
- Nhà nước của dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước trong đó dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Nước ta là nước dân chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Quan niệm toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ triệt để của Nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và phải được thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý mà đạo luật cao nhất là Hiến pháp. 
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, ngay từ điều 1 đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 32 của Hiến pháp 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết”.
- Nhà nước do dân
 Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; Nhà nước phải tin dân và dựa vào dân. Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử thì cũng có quyền thực hiện chế độ bãi miễn nội các chính phủ nếu các đại biểu đó, các cơ quan nhà nước và nội các chính phủ không còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức người, sức của tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đồng thời nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
- Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh, là Nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. 
Nhà nước vì dân là Nhà nước biết chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân được học hành; làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước chăm lo cho dân không phải làm thay dân mà là hướng dẫn dân tự chăm lo đời sống của chính mình.
Điều đặc biệt quan trọng mà Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh là để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, Nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải biết loại hết "các ông quan cách mạng" ra khỏi bộ máy nhà nước.
4.2. Về bản chất của Nhà nước 
Hồ Chí Minh là người giải quyết hết sức thành công vấn đề mối quan hệ giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước nào cũng mang tính giai cấp. 
Quán triệt các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất giai cấp của nhà nước. Trong lịch sử xã hội có giai cấp, một kiểu nhà nước bao giờ cũng gắn với một chủ thể giai cấp nhất định. Không có một nhà nước nào lại đứng ngoài giai cấp, đứng trên giai cấp, không có nhà nước phi giai cấp. Nhà nước bao giờ cũng là công cụ thống trị của một giai cấp và nhằm bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định.
- Nhà nước Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân và vì dân về bản chất là Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Trên cơ sở quan niệm chung đó, Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công - nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Như vậy, nội hàm khái niệm "dân" ở Hồ Chí Minh mang nội dung xã hội, giai cấp với "cái lõi" của nó là công nhân, nông dân, lao động trí óc. Mặt khác, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước quyết định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta.
- Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc. 
4.3. Về xây dựng bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều bộ phận hợp thành. Người chủ trương xây dựng một bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả. Trong đó, Quốc hội thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho quyền lợi của toàn dân, cả nước; Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân; xây dựng bộ máy tư pháp có tính độc lập tương đối, hoạt động chỉ tuân thủ luật pháp.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần xây dựng một đội ngũ công chức có tính chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá. Hồ Chí Minh yêu cầu công chức phải có đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, phong cách công tác dân chủ. 
5. Tư tưởng về văn hoá và đạo đức
5.1. Về văn hoá
- Hồ Chí Minh được UNESCO ghi nhận là nhà văn hoá kiệt xuất với tư cách là chủ thể sáng tạo nên những gí trị văn hoá lớn. 
- Khái niệm văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh 
Hồ Chí Minh đã nêu lên một định nghĩa về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 458.
. 
- Hồ Chí Minh xác định rất rõ vai trò của văn hoá, xem văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Vai trò của văn hoá chủ yếu được thể hiện qua các chức năng của nó.. 
+ Chức năng bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp;
+ Nâng cao dân trí;
+ Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh.
Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống các luận điểm về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung xây dựng các lĩnh vực văn hoá cụ thể:
 Văn hoá giáo dục: Hồ Chí Minh có một hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm về giáo dục. Mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người tốt, những cán bộ tốt. Nội dung giáo dục phải toàn diện bao gồm tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, thể chất và thẩm mỹ. 
Văn hoá văn nghệ: Hồ Chí Minh xác định văn hoá văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới; văn hoá văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân, phục vụ quần chúng nhân dân; văn hoá văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại, hay về nội dung, dễ hiểu về hình thức. 
Văn hoá đời sống: Bao gồm đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. 
 5.2. Về đạo đức
 - Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
 + Vị trí, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội và đời sống cá nhân 
Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức là gốc, là nền tảng của con người, của xã hội giống như gốc của cây, nguồn của sông suối. Bởi vì, có đạo đức cách mạng trong sáng mới làm được những việc cao cả, vẻ vang; đạo đức là vũ khí sắc bén trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh của mình trong mọi hoàn cảnh; đạo đức là tiêu chuẩn đánh giá sự cao thượng của con người; đạo đức cùng với tài năng có vai trò quan trọng trong đời sống mỗi người. 
+ Các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản 
Trung với nước, hiếu với dân: Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với cộng đồng. "Trung", "Hiếu" là các khái niệm đạo đức truyền thống, được Hồ Chí Minh bổ sung vào những nội dung mới. 
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây là chuẩn mực đạo đức trung tâm, điều chỉnh hành vi ứng xử hằng ngày của con người. Hồ Chí Minh giải thích rõ: 
Hồ Chí Minh chỉ rõ các tiêu chuẩn đạo đức cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và là những đức tính tối cần thiết của mỗi con người. Nó là thước đo bản chất "người" của một con người. Hồ Chí Minh viết:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông 
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người"
Chí công vô tư: Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; có thể hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung. 
Yêu thương con người: Yêu thương tất cả mọi người, nhất là những người lao động nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức và những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Yêu thương con người là phải quan tâm, chăm sóc mọi mặt đời sống con người và tạo điều kiện cho con người phát huy hết tài năng, sáng tạo của mình. Yêu thương con người là phải hành động, chiến đấu để bảo vệ lương tri, phẩm giá làm người, giải phóng con người một cách triệt để. 
Tinh thần quốc tế trong sáng: Chuẩn mực đạo đức này điều chỉnh hành vi rộng lớn trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội xã hội chủ nghĩa. Tinh thần quốc tế bao gồm: Tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ, ủng hộ tất cả các dân tộc chống áp bức, bất công, chống sự thù hằn, phân biệt chủng tộc; xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế. 
- Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng 
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức.
 Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
Tu dưỡng đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng. 
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
Năm là, học tấm gương, học suốt đời, học quân chúng, học từ trong thực tiễn, càng tiến lên càng phải học. 
III. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc 
1.1. Tài sản tinh thần to lớn, quý giá của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Sở dĩ như vậy là vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hoá, tư tưởng " vĩnh cửu" của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, với những hoạt động cách mạng của Người. Ngày nay, tư tưởng đó đang soi sáng cho chúng ta, kết tinh lại thành các giá trị văn hoá mang tính bền vững, có sức lan toả mạnh mẽ, rộng rãi trong đời sống tinh thần của mọi đối tượng dân cư của đất nước ta. 
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Tư tưởng của Người gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta.
1.2. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, cả đường lối đối nội và đường lối đối ngoại, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới thắng lợi, hội nhập ngày càng sâu rộng, có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta, Qua thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu, hàng triệu con người. 
 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú văn hoá nhân loại
2.1. Phản ánh khát vọng thời đại
 Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Hồ Chí Minh có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng có những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc th

Tài liệu đính kèm:

  • docTAI_LIEU_GIAO_DUC_CHINH_TRI.doc