MỞ ĐẦU . 4
NỘI DUNG . 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CẢNH QUAN VÀ ĐÁNH GIÁ
CẢNH QUAN . 6
I. LÍ LUẬN VỀ CẢNH QUAN . 6
1. Quan điểm về cảnh quan . 6
2. Các khái niệm về cảnh quan . 8
3. Cảnh quan sinh thái . 13
4. Sinh thái cảnh quan. 13
các hệ địa lí (hệ địa sinh thái), nhưng bản thân hoạt động đánh giá môi trường tự nhiên lại là sự thể hiện cơ chế quan hệ tương hỗ giữa các hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế - xã hội. Nếu coi hệ thống kinh tế - xã hội là chủ thể (là mục đích phục vụ) và coi điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên như là khách thể (là cơ sở vật chất của sản xuất) thì đối tượng của hoạt động đánh giá là quan hệ giữa chủ thể và khách thể ấy. Do đó muốn có sự đánh giá đúng đắn phải có số đo về quan hệ tương hỗ ấy, nghĩa là phải quan sát đồng thời sự hoạt động của các hệ thống tự nhiên và các hệ thống kinh tế - kĩ thuật, tốt hơn là phải có số đo về sự trao đổi vật chất và năng lượng giữa các hệ thống đó. Như vậy hiểu đánh giá là sự so sánh khả năng đáp ứng của khách thể đối với yêu cầu của chủ thể. Hình 1: Mối quan hệ giữa hệ tự nhiên và hệ kinh tế - kĩ thuật theo Terry Rambo Vật chất Năng lượng thông tin Vật chất Năng lượng thông tin Hệ tự nhiên Hệ KT - KT Vật chất Năng lượng thông tin Vật chất Năng lượng thông tin Chọn lọc Thích ứng Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 15 Trong mối quan hệ đó theo Terry Rambo, các nhà khoa học cần tập trung giải quyết tính thích ứng và tính chọn lọc. Hệ thống tự nhiên không thể chọn lọc và thích ứng với hệ thống kinh tế - xã hội nhưng hệ thống kinh tế xã hội cần chọn lọc và thích ứng với hệ thống tự nhiên. Sự đánh giá ở đây là đánh giá về mặt kinh tế - kĩ thuật của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên nên cần có sự tham gia của các nhà kinh tế và kĩ thuật trong việc đánh giá. - Đánh giá cần có mục đích cụ thể: tùy theo mục đích đánh giá mà đặc điểm của tự nhiên nào đó được coi là tốt hoặc xấu, có thể tốt cho hoạt động này nhưng lại xấu cho hoạt động khác. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 16 Ví dụ: không thể nói đất của một vùng không tốt, mà chỉ là không tốt cho một vài mục đích như đất bazan không thích hợp cho trồng lúa nhưng nó lại thích hợp cho trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su; ngược lại không thể nói đất phù sa là tốt nhất, bởi vì mặc dù đất phù sa rất tốt cho việc phát triển cây lúa, một số cây công nghiệp ngắn ngày và cây lương thực khác, nhưng nó lại không thật sự tốt cho việc trồng cây cà phê, cao su, chè Vì thế, đặc điểm tự nhiên là "đơn trị" còn giá trị của đặc điểm ấy lại là "đa trị" và số đo của đặc điểm tự nhiên xác định qua quan trắc thì khác hẳn giá trị kinh tế của nó. Ví dụ: Đánh giá đặc điểm khí hậu ở Sa Pa vừa thuận lợi cho phát triển du lịch vừa thuận lợi cho phát triển trồng trọt cây xứ lạnh - Sự xác định giá trị kinh tế của điều kiện tự nhiên – tài nguyên thiên nhiên của hệ địa sinh thái là nội dung của hoạt động đánh giá. Tuy nhiên, hoạt động đánh giá không phải làm một lần mà xong mà phải xem xét là một quá trình nhận thức tiếp cận đối tượng đánh giá, kiểm kê đánh giá lại đối tượng sau mỗi tác động của một hệ địa kinh tế - kĩ thuật. Hình 3: Quá trình biến đổi của các hệ thống tự nhiên và kinh tế - xã hội A 1 B 2 C 3 A. Trạng thái tự nhiên khi thiết kế B. Trạng thái tự nhiên khi thi công C. Trạng thái tự nhiên khi công trình kinh tế - kĩ thuật hoạt động Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 17 1. Đồ án thiết kế Quan hệ tương hỗ 2. Công trình đã xây dựng xong Quá trình biến đổi 3. Công trình đã hoạt động sản xuất của các hệ thống tự nhiên và kinh tế - xã hội Ví dụ: Trước khi xây dựng nhà máy thủy điện phải có sự đánh giá tác động, sau khi công trình hoàn thành và đi vào hoạt động thì vẫn phải tiếp tục có hoạt động đánh giá để luôn có sự điều chỉnh tác động sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. Đây là vấn đề mà hiện nay nhiều công trình thủy điện đang quan tâm như Sông Tranh hay các công trình thủy điện ở Tây Nguyên Ngay cả nhà máy thủy điện lớn nhất cả nước hiện nay là nhà máy thủy điện Sơn La, so với dự kiến ban đầu với công suất là 3600MW, nhưng sau khi nghiên cứu, phân tích đánh giá tác động của công trình tới tự nhiên và đời sống kinh tế xã hội, công suất thiết kế giảm xuống còn 2400MW. Hình 4: Cấu trúc của hoạt động đánh giá và quản lí tài nguyên Đánh giá ĐKTN và TNTN Phương án tác động (mô hình hoạt động) Chính sách điều chỉnh giám sát Mục tiêu Kiểm kê Đánh giá tác động (mô phỏng) Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 18 2. Khoa học đánh giá kinh tế kĩ thuật các ĐKTN - TNTN là một khoa học liên ngành, có phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu riêng - Đánh giá là khoa học liên ngành chứ không phải là chương trình nghiên cứu liên ngành. Mô hình hoạt động đánh giá như là quá trình nhận thức quan hệ tương hỗ giữa các bộ phận cấu tạo của hệ thống tự nhiên - kinh tế, đã nói lên sự cần thiết phải có sự hợp tác, phối hợp giữa nhiều ngành khoa học. Sự khác biệt giữa khoa học liên ngành với một chương trình nghiên cứu liên ngành là một chương trình nghiên cứu liên ngành là một chương trình hành động nhằm một mục tiêu chung nhưng còn thiếu một lí luận chung, một phương pháp chung do đó dễ dẫn đến tình trạng nghiên cứu không đồng bộ và khó đi đến một kết luận chắc chắn được mọi người công nhận. Đối với khoa học liên ngành, những người làm nhiệm vụ đánh giá có thể dựa vào các thông tin thu thập được từ nhiều ngành khác nhau để đưa ra những nhận định đánh giá từ đó xác định được phương án sử dụng tự nhiên một cách tối ưu. - Khoa học đánh giá có phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu riêng. - Đối tượng đánh giá xét theo quan điểm hệ thống là một hệ thống tự nhiên - kinh tế - xã hội, nên phương pháp luận hệ thống được vận dụng khi phân tích đối tượng. - Đối tượng nghiên cứu là hệ thống nên phương pháp nghiên cứu là phương pháp tiếp cận hệ thống, sử dụng chủ yếu phương pháp mô hình hóa hệ thống. 3. Khoa học đánh giá còn là khoa học địa tiêu chuẩn hóa So sánh chất lượng môi trường với các đặc điểm tài nguyên thiên nhiên, có hệ tiêu chí, so sánh với thực tế. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 19 4. Mối quan hệ giữa kiểm kê và đánh giá ĐKTN - TNTN (quan hệ giữa cảnh quan cơ bản và ứng dụng). - Kiểm kê ĐKTN - TNTN là bước khởi đầu của công trình nghiên cứu địa lí ứng dụng làm tiền đề cho bước tiếp theo. - Việc kiểm kê phải có mục đích, có sự chi phối bởi mục đích, được quy định bởi nhiệm vụ khảo sát ứng dụng - Tùy thuộc vào nội dung tìm hiểu, việc chuyển từ kết quả điều tra cơ bản sang ứng dụng có thể qua 3 thể thức tiến hành. a. Xác định mức độ chi tiết hợp lí nhất của sự phân chia lãnh thổ tự nhiên Mối tương quan giữa một bên là cấp bậc của yêu cầu lập quy hoạch và một bên là cấp bậc hệ địa lí cần nghiên cứu cũng như tỷ lệ bản đồ cần xây dựng. Các bậc hệ địa lí đang nghiên cứu cần xác định trước khi bắt đầu công việc kiểm kê, đánh giá. Mức độ càng chi tiết thì cấp bậc địa lí càng phải xuống thấp hơn. Ví dụ như khi lập kế hoạch sơ đồ cho phát triển kinh tế tổng quát hay các vùng kinh tế lớn, cần phải nghiên cứu đánh giá từng địa phương nhỏ, rồi gộp lại thành một địa tổng thể lớn hơn. b. Sƣu tầm các đặc trƣng địa lí của các hệ địa lí Các đặc trưng địa lí cần được biểu thị bằng các thông số. Tùy theo đối tượng mà mục đích đánh giá mà lựa chọn ra những thông số căn bản nhất, qui định các đặc trưng tổng thể và đặc tính tự nhiên. Ví dụ: Các đặc trưng tổng thể lựa chọn phù hợp với mục tiêu đánh giá: Đối với các nhà thổ nhưỡng thì đó là độ phì của đất, các nhà xây dựng thì đó là độ thấm, độ chặt, độ lún của đất.. c. Phân nhóm ứng dụng các hệ địa lí Gộp nhóm các hệ địa lí thành một số nhóm tương đối lớn. Mỗi nhóm ấy phải có cùng một kiểu tiềm năng tài nguyên hoặc có những điều kiện giống nhau cho sự phát triển một ngành nào đó hay cho sinh hoạt của dân Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 20 cư hoặc là phản ứng lại như nhau đối với những biện pháp xây dựng và cải tạo - Theo hướng nghiên cứu cảnh quan cơ bản làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu ứng dụng được A.G.Ixaxenko lập luận về mốt quan hệ này như sau: + Việc phân chia các cảnh quan dựa trên cơ sở nguyên tắc đồng nhất địa đới và phi địa đới đảm bảo sự bao quát đầy đủ tất cả các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Vì thế cảnh quan thực chất là một vùng tài nguyên thiên nhiên độc lập, được đặc trưng bằng "một bộ" riêng biệt các TNTN và đồng thời bằng những điều kiện địa phương độc đáo cho sự khai thác chúng. + Trên cơ sở bản đồ cảnh quan có thể xây dựng các bản đồ phân tích có nội dung khác nhau nhất về các loại ĐKTN - TNTN riêng biệt cũng như tổ hợp của các TNTN khác nhau. Có thể xây dựng ở dạng một bản đồ phân vùng TNTN tổng hợp hoặc là bản đồ phân loại các cảnh quan theo tiềm năng tài nguyên của chúng. Theo ông nên kết hợp 2 loại bản đồ đó. - Khi sử dụng bản đồ cảnh quan để phân tích các tài nguyên thiên nhiên và các mối quan hệ qua lại giữa hoạt động kinh tế và môi trường tự nhiên cần phân chia ra 3 nhóm chỉ số phân tích theo các mặt khác nhau: + Nhóm các thông số cơ bản của các hệ địa lí quyết định các điều kiện sinh hoạt, hoạt động sản xuất của dân cư + Các TNTN có thể được phân loại theo chức năng sản xuất của chúng + Các chỉ số đặc trưng về mối quan hệ qua lại giữa hoạt động của con người và cảnh quan - Một hướng tiếp cận khác được sử dụng nhiều trong những năm gần đây là sử dụng kết quả phân loại cảnh quan sinh thái trong các công trình nghiên cứu ứng dụng. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 21 4. Xây dựng nội dung quy hoạch a. Khái niệm quy hoạch Quy hoạch là việc nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống những dự kiến, định hướng hành động nhằm đạt được mục đích và mục tiêu cụ thể. Quy hoạch gắn liền với các biện pháp quản lí cả không gian phân bố và chiến lược phát triển cho các hoạt động sản xuất cũng như tổ chức xã hội. Ví dụ đưa ra một bản đồ về tổ chức kinh tế cho một ngành cụ thể như nông nghiệp, du lịch, tái định cư một công trình thủy điện nhằm định hướng chiến lược cho sự phát triển một cách ổn định. Khái niệm quy hoạch có thể được nghiên cứu dưới góc độ: - Quy hoạch sử dụng đất: tập trung vào việc lựa chọn các loại hình sử dụng đất (đất nông nghiệp hay lâm nghiệp), theo hình thức quản lí (hay phân cấp đầu nguồn) - Quy hoạch vùng: tập trung vào việc nghiên cứu thiết kế sơ đồ phân bố của các đối tượng kinh tế - xã hội. Ví dụ qui hoạch tổng thể nhà máy giấy Bãi Bằng, qui hoạch vùng nguyên liệu - Quy hoạch tổng thể: Đó là sự phân bố hài hòa, tính tới lợi ích tối ưu trong mối lien hệ lien vùng. - Quy hoạch môi trường: giải quyết các vấn đề môi trường làm mục tiêu phát triển. b. Mối quan hệ giữa đánh giá và quy hoạch - Đánh giá là cơ sở cho việc quy hoạch. Hai khâu đánh giá và quy hoạch gắn bó và xâm nhập vào nhau nên nếu đánh giá kỹ và có chất lượng tốt thì khâu quy hoạch có phần tập trung hơn. - Khi đánh giá phải xem xét tất cả các phương án sử dụng, bảo vệ và cải tạo tự nhiên khác nhau nhưng khi quy hoạch thì chỉ lựa chọn phương án tối ưu. Vì thế khi quy hoạch cũng phải nghiên cứu cẩn thận nhiều khía cạnh nhưng chỉ nhằm tìm ra biện pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời vẫn phải bảo vệ và cải tạo được tự nhiên. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 22 - Trong khi đánh giá thì mặt tự nhiên là chính nhưng việc lựa chọn phương án quy hoạch cần cân nhắc toàn diện các mặt hệ quả khi thực hiện phương án, lợi ích trước mắt và lâu dài, hiệu quả kinh tế và sự bền vững của môi trường sinh thái, môi trường xã hội và nhân văn. - Cũng nên quy hoạch liên ngành và cũng nên làm theo phương thức từ trên xuống và từ dưới lên. Nhóm trung tâm đánh giá - quy hoạch vẫn phải đưa ra dự án quy hoạch tổng hợp ban đầu. Trong hội thảo khoa học, đông đảo các ngành sẽ bổ xung và thống nhất bước đầu. Sau đó mỗi ngành lại quy hoạch kỹ phần riêng của ngành mình rồi lại thông qua một số hội thảo khoa học chuyên ngành, thống nhất lần cuối cùng bản đồ phân bố lực lượng sản xuất chúng mà nhóm trung tâm đánh giá - quy hoạch tổng hợp có nhiệm vụ hoàn chỉnh thành báo cáo chính thức đưa lên cấp quản lí cao nhất xét duyệt. - Công tác quy hoạch không phải làm một lần là xong mà vẫn phải kiểm tra, theo dõi và điều chỉnh. Quá trình đánh giá - quy hoạch là một chu trình khép kín, lặp đi lặp lại nhiều lần của các mối quan hệ giữa các mục tiêu kinh tế, đánh giá hệ địa sinh thái, đề ra biện pháp quản lí (sử dụng, bảo vệ và cải tạo tự nhiên), đánh giá biện pháp quản lí, quyết định thủ tục thực hiện biện pháp và kiểm tra sự thực hiện cũng như hiệu quả kinh tế của các biện pháp đã được quyết định, mà công tác quan tâm là quyết định biện pháp quản lí. - Bất cứ một dự án quy hoạch nào, một dự án công trình kinh tế - kỹ thuật nào trong luận chứng kinh tế kỹ thuật cần kèm theo báo cáo đánh giá tác động môi trường. Bất cứ một hoạt động kinh tế - xã hội nào cũng đều tác động ít hay nhiều đến môi trường bao quanh. Vì vậy cần phải đề ra đồng thời những biện pháp cụ thể, kể cả các chi phí nếu cần, để cho hoạt động sản xuất làm tổn hại môi trường càng ít càng tốt. Đó cũng là nội dung của dự báo địa lí. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 23 Hình 5: Quá trình quy hoạch (phỏng theo C.S. Holling - 1978) c. Quy hoạch và tổ chức lãnh thổ Quy hoạch và tổ chức lãnh thổ về thực chất là một phương pháp tiếp cận tổng hợp, xem xét, bố trí lại các ngành sản xuất, kinh tế, xây dựng những định hướng phát triển một cách toàn diện cho từng vùng, từng miền lãnh thổ sao cho phù hợp với tiềm năng tự nhiên, KT - XH chung, đồng thời dự báo xu thế phát triển trong tương lai lâu dài và theo từng giai đoạn cụ thể, đảm bảo sự hài hòa trong quá trình phát triển KT - XH theo từng khu vực cũng như trong cả nước. Không thể đứng ở một góc độ của khu vực mà phải bao quát toàn bộ trong phạm vi cả nước. Quy hoạch tổng thể được hiểu: Hiệu quả của công tác quy hoạch vùng được đảm bảo bởi các định hướng và dự kiến phát triển kinh tế của từng ngành trong vùng, của nội bộ từng xí nghiệp riêng biệt cũng như khi phát triển một cách tổng hợp tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong phạm vi một vùng. Mục tiêu kinh tế Đánh giá biện pháp quản lí Đánh giá hệ địa – sinh thái Quyết định biện pháp quản lí Kiểm tra hiệu quả của biện pháp Thủ tục thực hiện Làm lại Làm lại Làm lại Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 24 Khái niệm tổ chức lãnh thổ nói chung lại có thể hiểu rằng đấy là sự tìm kiếm một sự phân bố tối ưu về người, các hoạt động và tài sản để tránh những sự mất cân đối trên lãnh thổ một quốc gia hay của một vùng. Như thế, nó không chỉ chú ý tới tài nguyên mà còn chú ý tới tài sản, cả tự nhiên và con người để tránh mất cân đối. Thực hiện công bằng về mặt không gian tức là không chỉ phát triển lệch lại một vùng mà phải nằm trong sụ phát triển chung của đất nước, chú không chỉ là một vùng riêng biệt. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 25 CHƢƠNG 2: CÁC QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN I. CÁC QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN 1. Quan điểm phát sinh Theo quan điểm này thì phải phân tích các quy luật khách quan đã hình thành nên lãnh thổ, phải xem xét chúng được phát sinh từ lúc nào, do những nguyên nhân gì, hiện nay đang phát triển như thế nào và tương lai có biến đổi không? Có nắm được quy luật phát sinh và phát triển của các địa tổng hợp mới có thể điều khiển được chúng, sử dụng chúng một cách hợp lí, tránh được những hậu quả xảy ra. Khi áp dụng quan điểm này phải phân tích chi tiết và cụ thể sự diễn biến của hai quy luật địa lí là quy luật địa đới và quy luật phi địa đới, nắm được mối quan hệ tương hỗ giữa hai quy luật này. Mỗi vùng địa lí nếu có lịch sử riêng và sự thống nhất của nó được hình thành trong lịch sử phát triển xảy ra dưới các tác nhân địa đới và phi địa đới. Trong quá trình phát triển của lớp vỏ địa lí, sự phân hóa lãnh thổ càng trở nên phức tạp. Trong quá trình này các đơn vị lãnh thổ càng lớn càng được hình sớm hơn cá đơn vị nhỏ, các vùng cùng một cấp có thể có các tuổi khác nhau. 2. Quan điểm tổng hợp Quan điểm tổng hợp coi môi trường tự nhiên không phải là một tập hợp ngẫu nhiên của các vật thể và hiện tượng tự nhiên. Sự tác động của con người vào một thành phần hay một bộ phận tự nhiên nào đó không chỉ làm biến đổi thành phần đó mà còn có thể làm thay đổi cả tổng thể, đồng thời do tính chất mở của các hệ địa lí và tính chất liên tục của tự nhiên mà những tác động có thể được lan truyền. Quan điểm này đòi hỏi phải tính toán đến tất cả mọi yếu tố, không loại trừ mọi yếu tố nào, có như vậy ta mới nhìn nhận lãnh thổ một cách toàn diện, không thiếu sót và sai lầm. Tuy Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 26 nhiên, ta không nên áp dụng quan điểm này một cách máy móc bằng cách coi vai trò của tất cả các nhân tố là như nhau, sắp xếp các nhân tố một cách cứng nhắc. Tùy thuộc vào từng lãnh thổ mà ảnh hưởng của những nhân tố này trội hơn nhân tố kia, nhưng điều quan trọng là phải làm rõ được mối quan hệ mật thiết, ràng buộc giữa các nhân tố. 3. Quan điểm khách quan Theo quan điểm này thì cần phải nhìn nhận lãnh thổ một cách khách quan, không phụ thuộc ý thức chủ quan của con người, phải tin tưởng ở sự tồn tại khách quan của lãnh thổ. Nhà nghiên cứu phải nhận thức được những đặc điểm khách quan của lãnh thổ, sự phân hóa của chúng một cách khoa học, đúng đắn, không nên chỉ dựa vào kinh nghiệm và tình cảm cá nhân. Như vậy sẽ giúp cho nhận thức được đúng bản chất của đối tượng, nâng cao giá trị khoa học cũng như giá trị thực tiễn của công tác nghiên cứu. Mục đích của việc nghiên cứu một lãnh thổ là rất khác nhau. Tuy nhiên một lãnh thổ không thể đáp ứng được mong muốn của tất cả các nhà nghiên cứu, các ngành kinh tế. Một lãnh thổ có thể tối ưu cho ngành này nhưng chưa chắc đã thuận lợi đối với ngành khác. Ví dụ như sông ở khu vực miền núi không thuận lợi cho phát triển giao thông do địa hình hiểm trở nhưng lại là điều kiện tốt cho việc xây dựng các nhà máy thủy điện. Vì vậy khi nghiên cứu lãnh thổ thì quan điểm khách quan là rất quan trọng. 4. Quan điểm đồng nhất tƣơng đối Quan điểm này cho thấy một lãnh thổ vừa thống nhất lại vừa phức tạp, thống nhất trên cơ sở một số chỉ tiêu nhất định phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa các thành phần nhưng đồng thời vẫn có sự phân hóa nội bộ khiến cho mỗi vùng lại có thể chia ra thành những đơn vị nhỏ hơn, cũng như có thể ghép thành những đơn vị lớn hơn. Như thế một vùng lãnh thổ nào đó vừa là một hệ thống bao gồm nhiều lãnh thổ nhỏ vừa là một bộ phận Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 27 của lãnh thổ lớn hơn. Khi cấp bậc phân vị của lãnh thổ càng cao, lãnh thổ càng rộng lớn thì mức độ dồng nhất càng có tính chất chung nhất, dựa vào các chỉ tiêu khái quát và ngược lại nếu cấp bậc phân vị của lãnh thổ càng nhỏ thì mức độ đồng nhất càng cao, dựa vào chỉ tiêu cụ thể chi tiết. Đại bộ phận lãnh thổ của một vùng phải thể hiện đặc điểm chung, nhưng ngoài ra vẫn có những bộ phận có những nét cá biệt, ngoại lệ. Càng đi vào trung tâm của vùng thì đặc điểm chung càng rõ rệt, càng đi xa trung tâm thì càng có tính chất trung gian, chuyển tiếp. 5. Quan điểm phát triển bền vững Năm 1987, UBMT và phát triển bền vững của LHQ đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững “phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai”. Năm 1992, hội nghị thượng đỉnh của LHQ về “môi trường và phát triển” tổ chức tại Riođe Janeiro (Braxin) với sự tham gia của nhiều nước đã nhất trí rằng “phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thảo mãn các yêu cầu hiện tại nhưng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng yêu cầu của chính họ” và phát triển bền vững là mục tiêu của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Mục tiêu cuối cùng của phát triển bền vững là thỏa mãn yêu cầu căn bản của con người, cải thiện cuộc sống, bảo tồn và quản lý hữu hiệu hệ sinh thái, bảo đảm tương lai ổn định. Phát triển bền vững thực hiện và đảm bảo sự liên đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia, giữa hiện tại với tương lai. Phát triển bền vững có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Muốn phất triển bền vững được phát lồng ghép được 3 thành tố quan trọng của sự phát triển với nhau: phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là nguyên lý chung để hướng sự phát triển bền vững của các lĩnh vực trong nền kinh tế. Chuyên đề Cảnh quan ứng dụng Nguyễn Thị Thuyết – K24.0714 - ĐLTN Trang 28 Mô hình phát triển bền vững của UNICEP năm 1993: thể hiện mối quan hệ giữa thời gian và không gian của các hệ Kinh tế - Xã hội – Môi trường: Hình 6: Mô hình phát triển bền vững của UNICEP năm 1993 Trong mô hình này người ta nhấn mạnh tới các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường thay cho các hệ kinh tế - xã hội - môi trường. - Mục tiêu kinh tế trong mô hình này là nâng cao thu nhập của người dân, các ngành kinh tế và GDP, GNP. - Mục tiêu thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, vật chất, tinh thần của mọi người dân và cộng đồng dân cư. - Mục tiêu môi trường là gìn giữ lâu dài cân bằng câc hệ sinh thái nuôi dưỡng sự sống. 6. Quan điểm cùng chung lãnh thổ Quan điểm này dựa trên tính cá thể của các vùng địa lí tự nhiên, coi các vùng địa lí tự nhiên như là những đơn vị lãnh thổ cụ thể, không lặp lại trong không gian và thời gian. Như thế không thể c
Tài liệu đính kèm: