1 Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt - Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày, mang tính tự nhiên, thoải mái và sinh động, ít trau chuốt Trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm trong giao tiếp với tư cách cá nhân
- Gồm các dạng chuyện trò/ nhật kí/ thư từ
2 Phong cách ngôn ngữ báo chí (thông tấn) -Kiểu diễn đạt dùng trong các loại văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông của xã hội về tất cả các vấn đề thời sự (thông tấn = thu thập và biên tập tin tức để cung cấp cho các nơi)
3 Phong cách ngôn ngữ chính luận Dùng trong lĩnh vực chính trị - xã hội, ; người giao tiếp thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm tư tưởng, tình cảm của mình với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội
4 Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật -Dùng chủ yếu trong tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người; từ ngữ trau chuốt, tinh luyện
5 Phong cách ngôn ngữ khoa học Dùng trong những văn bản thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học, đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu
a và thiết bị tới đây để dập dịch không chỉ là hành động mang tính nhân văn, mà còn thắp lên tia hi vọng cho hàng triệu người Phi ở khu vực này”. (Dẫn theo nhân dân.Com.vn) Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí) - Biện pháp tu từ (Nhận diện và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ)Yêu cầu: . Tu từ về ngữ âm: điệp âm, điệp vần, điệp thanh, (tạo âm hưởng và nhịp điệu cho câu).- Tu từ về từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tương phản, chơi chữ, nói giảm, nói tránh, thậm xưng, . Tu từ về cú pháp: Lặp cú pháp, liệt kê, chêm xen, câu hỏi tu từ, đảo ngữ, đối, im lặng, Biện pháp tu từ Hiệu quả nghệ thuật (Tác dụng nghệ thuật) So sánh Giúp sự vật, sự việc được miêu tả sinh động, cụ thể tác động đến trí tưởng tượng, gợi hình dung và cảm xúc Ẩn dụ Cách diễn đạt mang tính hàm súc, cô đọng, giá trị biểu đạt cao, gợi những liên tưởng ý nhị, sâu sắc. Nhân hóa Làm cho đối tượng hiện ra sinh động, gần gũi, có tâm trạng và có hồn hơn. Hoán dụ Diễn tả sinh động nội dung thông báo và gợi những liên tưởng ý vị, sâu sắc Điệp từ/ngữ/cấu trúc Nhấn mạnh, tô đậm ấn tượng – tăng giá trị biểu cẳm Nói giảm Làm giảm nhẹ đi ý đau thương, mất mát nhằm thể hiện sự trân trọng Thậm xưng (phóng đại) Tô đậm ấn tượng về Câu hỏi tu từ Bộc lộ cảm xúc Đảo ngữ Nhấn mạnh, gây ấn tượng về Đối Tạo sự cân đối Im lặng () Tạo điểm nhấn, gợi sự lắng đọng cảm xúc Liệt kê Diễn tả cụ thể, toàn điện Ví dụ 1: Chỉ ra biện pháp tu từ chính được sử dụng trong đoạn thơ sau và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si;” (Vội vàng – Xuân Diệu) (Trả lời: - Biện pháp tu từ được sử dụng là phép trùng điệp (điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc): Củanày đây/ Này đây của Hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ là nhấn mạnh vẻ đẹp tươi non, phơi phới, rạo rực, tình tứ của mùa xuân qua tâm hồn khát sống, khát yêu, khát khao giao cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình). Ví dụ 2: Xác định biện pháp tu từ chủ yếu được sử dụng trong dòng thơ in đậm và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ấy. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” (Viếng lăng Bác - Viễn Phương) ( Trả lời: Biện pháp tu từ được sử dụng trong dòng thơ in đậm là ẩn dụ - mặt trời (trong lăng) chỉ Bác Hồ. Tác dụng: Ca ngợi công ơn Bác Hồ đã soi đường chỉ lối cho Cách mạng, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Ca ngợi sự vĩ đại và bất tử của Bác Hồ trong lòng bao thế hệ dân tộc Việt. Cách dùng ẩn dụ làm cho lời thơ hàm súc, trang trọng và giàu sức biểu cảm.) - Phương thức biểu đạt 2.1. Yêu cầu nhận diện phương thức biểu đạt 1. Yêu cầu nhận diện phương thức biểu đạt Phương thức biểu đạt Nhận diện qua mục đích giao tiếp 1 Tự sự Trình bày diễn biến sự việc 2 Miêu tả Tái hiện trạng thái, sự vật, con người 3 Biểu cảm Bày tỏ tình cảm, cảm xúc 4 Nghị luận Trình bày ý kiến đánh giá, bàn luận 5 Thuyết minh Trình bày đặc điểm, tính chất, phương pháp 6 Hành chính – công vụ Trình bày ý muốn, quyết định nào đó, thể hiện quyền hạn, trách nhiệm giữa người với người Ví dụ 1: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. (Trích Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà -Nguyễn Tuân) Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt nào là chính? (Trả lời: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên là miêu tả). Phân tích ý nghĩa hình ảnh, ngôn ngữ trong văn bản mà đề bài cho. II. PHẦN II:Tiếng Việt: 1. Ngữ cảnh là gì? Các nhân tố của ngữ cảnh? Vai trò của ngữ cảnh? 2 . Thế nào là ngôn ngữ báo chí? Các thể loại báo chí? Đặc trưng của ngôn ngữ báo chí? 3 .Chức năng của ngôn ngữ báo chí là gì? III. PHẦN III: Làm văn: 1. Lập luận phân tích là gì? 2. Tác dụng của lập luận phân tích trong văn nghị luận? 3. Phỏng vấn là gì? Trước cuộc phỏng vấn người phỏng vấn cần chuẩn bị như thế nào? IV. PHẦN IV: Văn học: Phân tích tâm trạng của Hồ Xuân Hương qua bài: Tự tình(Bài II). Nêu cảm nhận về cảnh thu và tình thu trong bài: Câu cá mùa thu(Thu điếu) của Nguyễn Khuyến. Vì sao chị em Liên ( trong truyện ngắn Hai đứa trẻ ) của Thạch Lam cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua? Qua đó tác giả muốn nói điều gì? Hãy phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân? Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích: “Hạnh phúc của một tang gia”(Trích Số đỏ) của Vũ Trọng Phụng? Bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm” Chí Phèo” của Nam Cao? -------Hết------- ĐÁP ÁN ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 11 Học kì I - Năm học 2015 -2016 I. Tiếng Việt: 1. Câu 1: - Ngữ cảnh là bối cảnh lời nói, ở đó người nói (người viết) tạo ra lời nói thích ứng, còn người nghe (người đọc) căn cứ vào đó để hiểu đúng ý. - Các nhân tố của ngữ cảnh: + Nhân vật giao tiếp. + Bối cảnh ngoài ngôn ngữ. + Văn cảnh. - Vai trò của ngữ cảnh: tạo lập câu và lĩnh hội câu. 2. Câu 2: - Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. - Các thể loại báo chí: Bản tin, phóng sự, tiểu phẩm, quảng cáo. - Đặc trưng của ngôn ngữ báo chí: + Tính thông tin thời sự. + Tính ngắn gọn. + Tính sinh động hấp dẫn. 3. Câu 3: Chức năng của ngôn ngữ báo chí: thông tin thời sự, phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng đồng thời nêu lên quan điểm chính kiến của tờ báo nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. II. Làm văn: 1. Câu 1: Lập luận phân tích là thao tác chia nhỏ các đối tượng thành các yếu tố bộ phận để xem xét rồi tổng hợp nhằm phát hiện ra bản chất của đối tượng. 2. Câu 2: Tác dụng của lập luận trong văn nghị luận: Nhằm làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác làm cho bài nghị luận rõ ràng, cụ thể, sinh động và có sức thuyết phục. 3. Câu 3: Phỏng vấn là một cuộc hỏi đáp có mục đích nhằm thu thập thông tin hoặc cung cấp thông tin về một chủ đề quan tâm. Trước cuộc phỏng vấn người phỏng vấn cần xác định rõ mục đích phỏng vấn, có sự hiểu biết nhất định về đối tượng phỏng vấn từ đó xây dựng một đề cương phỏng vấn với hệ thống câu hỏi thích hợp. III. Văn học: Dàn ý sơ lược. 1. Câu 1: Tâm trạng của Hồ Xuân Hương qua bài: Tự tình(Bài II). a. Hai câu đề. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non”. à Hình ảnh một con người cô đơn ngồi một mình trong đêm khuya, cộng vào đó là tiếng trống canh báo hiệu sự trôi chảy của thời gian. à Cách dùng từ: Cụ thể hóa, đồ vật hóa, rẻ rúng hóa cuộc đời của chính mình. à Câu thơ ngắt làm 3 như một sự chì chiết, bẽ bàng, buồn bực. Cái hồng nhan ấy không được quân tử yêu thương mà lại vô duyên, vô nghĩa, trơ lì ra với nước non. àHai câu thơ tạc vào không gian, thời gian hình tượng một người đàn bà trầm uất, đang đối diện với chính mình. b. Hai câu thực. “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. - Uống rượu mong giải sầu nhưng không được, Say lại tỉnh. tỉnh càng buồn hơn. - Hình ảnh người phụ nữ uống rượu một mình giữa đêm trăng, đem chính cái hồng nhan của mình ra làm thức nhấm, để rồi sững sờ phát hiện ra rằng trong cuộc đời mình không có cái gì là viên mãn cả, đều dang dở, muộn màng. - Hai câu đối thanh nghịch ý: Người say lại tỉnh >< trăng khuyết vẫn khuyết à tức, bởi con người muốn thay đổi mà hoàn cảnh cứ ỳ ra à vô cùng cô đơn, buồn và tuyệt vọng. c. Hai câu luận. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. - Động từ mạnh: Xiên ngang, đâm toạc-> Tả cảnh thiên nhiên kì lạ phi thường, đầy sức sống: Muốn phá phách, tung hoành - cá tính Hồ Xuân Hương: Mạnh mẽ, quyết liệt, tìm mọi cách vượt lên số phận. - Phép đảo ngữ và nghệ thuật đối: Sự phẫn uất của thân phận rêu đá, cũng là sự phẫn uất, phản kháng của tâm trạng nhân vật trữ tình. d. Hai câu kết. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con”. - Hai câu kết khép lại lời tự tình. àNỗi đau về thân phận lẽ mọn, ngán ngẩm về tuổi xuân qua đi không trở lại, nhưng mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn. à Nỗi đau của con người lâm vào cảnh phải chia sẻ cái không thể chia sẻ: Mảnh tình - san sẻ - tí - con con. à Câu thơ nát vụn ra, vật vã đến nhức nhối vì cái duyên tình hẩm hiu, lận đận của nhà thơ. Càng gắng gượng vươn lên càng rơi vào bi kịch. => Với cách sử dụng từ ngữ sáng tạo giàu sức biểu cảm, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật: đảo từ, đối, động từ mạnh, xây dựng hình ảnh độc đáoBài thơ thể hiện tâm trạng, thái độ: vùa đau buồn, vừa phẫn uất cho duyên phận hẫm hiu, bẽ bàng nhưng vẫn không thôi khát vọng hạnh phúc 2. Câu 2 : cảnh thu và tình thu trong bài: Câu cá mùa thu(Thu điếu) của Nguyễn Khuyến. a. Cảnh thu: - Điểm nhìn từ trên thuyền câu -> nhìn ra mặt ao nhìn lên bầu trời -> nhìn tới ngõ vắng -> trở về với ao thu( khác với Thu vịnh ) -> Cảnh thu được đón nhận từ gần -> cao xa -> gần. Cảnh sắc thu theo nhiều hướng thật sinh động. - Mang nét riêng của cảnh sắc mùa thu của làng quê Bắc bộ: Không khí dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật: + Màu sắc: Trong veo, sóng biếc, xanh ngắt + Đường nét, chuyển động: Hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ lửng. -> Hình ảnh thơ bình dị, thân thuộc, không chỉ thể hiện cái hồn của cảnh thu mà còn thể hiện cái hồn của cuộc sống ở nông thôn xưa. "Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo" ( Xuân Diệu ). - Không gian thu tĩnh lặng, phảng phất buồn: + Vắng teo + Trong veo Các hình ảnh được miêu tả + Khẽ đưa vèo trong trạng thái ngưng + Hơi gợn tí. chuyển động, hoặc chuyển + Mây lơ lửng động nhẹ, khẽ. - Đặc biệt câu thơ cuối tạo được một tiếng động duy nhất: Cá đâu đớp động dưới chân bèo -> không phá vỡ cái tĩnh lặng, mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật -> Thủ pháp lấy động nói tĩnh. b. Tình thu. - Nói chuyện câu cá nhưng thực ra là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. + Một tâm thế nhàn: Tựa gối ôm cần + Một sự chờ đợi: Lâu chẳng được. + Một cái chợt tỉnh mơ hồ: Cá đâu đớp động.. - Không gian thu tĩnh lặng như sự tĩnh lặng trong tâm hồn nhà thơ, khiến ta cảm nhận về một nỗi cô đơn, man mác buồn, uẩn khúc trong cõi lòng thi nhân. -> Nguyễn khuyến có một tâm hồn hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín mà sâu sắc. => Bút pháp thủy mặc Đường thi và vẽ đẹp thi trung hữu họa của bức tranh phong cảnh; vận dụng tài tình nghệ thuật đối. Cảnh thu đẹp nhưng buồn và tĩnh lặng. Qua đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và tâm sự thời thế của tác giả. 3. Câu 3 : Chị em Liên thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua.. Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội rồi gia đình thất cơ lỡ vận, phải chuyển về quê - một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hoá bé xí. Ngày nao cũng giống hệt ngày nào, chúng chờ bán cho người ta những món hàng nhỏ bé, chiều chiều trong bóng tối chập choạng của hoàng hôn với tiếng ếch nhái ngoài đồng va tiếng muỗi vo ve trong nhà, hai chị em cặm cụi tính số tiền bé nhỏ bán được trong ngày. Thế giới xung quanh hai chị em Liên cũng thật tội nghiệp. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nứơc dưới gốc cây bàng với ngọn đèn hoa kì leo lét. Đó là bà cụ Thi hơi điên, già nua với tiếng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu với gánh hàng phở là món quà xa xỉ của phố huyện nghèo. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh tre hay thanh nứa hoặc bất cứ thứ gì có thể dùng được. Số phận của con người đều có một cái gì đó tàn lụi, không tương la, leo lét một cách tội nghiệp trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối. Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, may mắn thay cuối cùng hai chị em Liên cũng tìm đựơc chút niềm vui để mong đợi, để hi vọng. Hai chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua vơí các em đó là cái mốc điểm bước đi của thời gian đang cho các em xích lại gần với chuyến tàu. Với các em chuyến tàu ấy là tất cả miền vui và hi vọng. Đó là Hà Nội trong quá khứ êm đềm xa xôi. Đó là niềm vui duy nhất để giải toả tâm trí sau một ngày mệt mỏi, đơn điệu và buồn chán. Đó là âm thanh, ánh sáng, vẻ lấp lánh của cuộc đời khác hoàn toàn không giống với cuộc đời nghèo nàn và tẻ nhạt nơi đây. Có lẽ qua truyện ngắn này, Thạch Lam muốn nói với chúng ta rằng : Có những cuộc đời mới đáng thương làm sao, có những ứơc mơ mới nhỏ bé, tội nghiệp nhưng chân thành tha thiết và cảm động làm sao. Nhưng dẫu sao, sự chờ đợi của các em cũng cho chúng ta hiểu ra rằng : Trong cuộc đời, phải biết vượt lên cái tẻ nhạt, cái vô vị hàng ngày để mà hi vọng, dẫu hi vọng có nhỏ bé thì mới có thể còn gọi là sống là tồn tại. Hãy biết hy vọng, dừng chím đắm trong bóng tối. Một chút hi vọng nhỏ bé thôi cũng sẽ là một liều thuốc tiên giúp chúng ta đứng dậy, trụ vững trong cuộc đời. => Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Bút pháp tương phản, đối lập. Miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng con người. Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu thủ thỉ thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng; Truyện ngắn hai đứa trẻ thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp người nghèo khổ, chìm khuất trong mỏi mòn, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước Cách mạng và sự trân trong với mong ước bé nhỏ, bình dị mà tha thiết của họ 4. Câu 4 : Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao : - Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa: Có tài năng viết thi pháp. Chữ của ông đẹp lắm, vuông lắm: « có được chữ của ông như có báu ật ở trên đời », « không kịp xin chữ thì ân hận suốt đời ». Vẻ đẹp của Huấn Cao lan truyền khắp thiên hạ và trở thành niềm mong ước của nhiều người. - Huấn Cao là một con người có khí phách ngang tàng, một bậc anh hùng nghĩa liệt : Có những hành động chọc trời, khuấy nước chống lại triều đình nhà Nguyễn. Dỗ gông một cách ngang ngược. Đuổi viên quản ngục ra khỏi phòng của mình. Xưa nay chưa bao giờ hạ mình trước uy quyền, tiền bạc. Coi thường quyền lực, coi thường cái chết. - Vẻ đẹp thiên lương : Có tâm hồn thanh cao. Không bao giờ vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết chữ bao giờ. Khi biết tấm lòng thành của viên quản ngục thì ông cho chữ:”thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong căn buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang tô đậm nét chữ trên tấm lụa trắng tinh. Huấn Cao là một bức tượng tạc sừng sững giữa chốn ngục tù mạnh mẽ, uy nghi; Huấn Cao đã đã thay đổi cả tấm đời nhỏ bé của viên quản ngục- một con người yêu cái đẹp đến khổ hạnh, tận tụy với cái đẹp như tôi tớ. Cái đẹp của thiên lương, tài hoa đã gạt phăng đi mọi tì vết của chốn ngục tù. Huấn Cao ngay trong đêm cuối cùng của đời mình đã được tái sinh. Sự tái sinh của Huấn Cao đã được gửi vào viên quản ngục. Một người tận tụy khổ hạnh như viên quản ngục thì ắt cái đẹp trong Huấn Cao sẽ được nâng niu, chăm sóc. Lời cuối cùng của Huấn Cao là lời khẳng định duy nhất chỉ có một bức tượng tạc về thiên lương và tài hoa cũng là lời phủ định cả thời cuộc đương thời:” thầy quản nên tìm về quê nhà mà ở đã , thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ơ đây, khó giữ cho thiên lương lành vững và cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Xã hội này không có chỗ cho cái đẹp”. Cái đời của Huấn Cao muốn gìn giữ thiên lương phải thành kẻ tử tù. Và viên quản ngục muốn tôn thờ cái đẹp phải làm một người dân thường để không ai chạm đến. => Xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao con người hội tụ nhiều vẽ đẹp lí tưởng. 5. Câu 5: Nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng. * Cái chết của cụ cố tổ làm nhiều người hạnh phúc: - Cụ cố Hồng: nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa khóc mếu máo để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:” Uí kìa, con giai nhớn đã già đến kia kìa!” - Ông phán mọc sừng đột nhiên tăng giá thêm vài nghìn đồng, không đau khổ vì vợ ngoại tình cũng không đau xót vì ông già đã mất mà chỉ lo phi vụ làm ăn với Xuân tóc đỏ. - Ông Văn Minh: Không biết xử trí với Xuân tóc đỏ ra sao vì nhờ Xuân tóc đỏ mà ông nội chết, bản di chúc sẽ được thực hiện, của cải sẽ chia ra, hầu bao ông ta sẽ tăng thêm. Tiệm may Âu hoá và ông Typn có thể lăng xê những mốt trang phục táo bạo nhất. - Cô Tuyết sung sướng vì được mặc bộ đồ ngây thơ cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê. - Cậu Tú Tân mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà chưa được dùng đến. - Xuân tóc đỏ vênh vang hơn vì có Xuân tóc đỏ mà ông cụ lăn ra chết, lập công trạng cho gia đình cụ cố Hồng. Cái cười đau xót mỉa mai của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại, tác giả còn tạo nên nhiều tình tiết hấp dẫn khác ngay cả chi tiết trì hoãn đám tang cũng là một chi tiết đắt giá. Chỉ vì đám tang của ông cụ già chưa đựoc cử hành mà cậu Tú Tân điên ngưòi lên, bà Văn Minh thì sốt ruột, ông Typn thì bực mình, họ chỉ mong ước đám tang đựơc cử hành, ngưòi chết đựoc chôn cất sớm để bản di chúc được thực hiện, để họ đựoc hạnh phúc vì đựơc khen ngợ, vì đựơc trổ tài điện ảnh, lấy được danh dự. Cái chết của cha, của ông nội đã tạo nên một sự tưng dửng hiếm thấy: “ Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn xe đám ma”, Nếu không có các từ cáo phó, kèn, đám ma thì có lẽ ta hiểu nhầm sang đám cưới bởi vì đây là một đám ma xưa nay hiếm . Bắt đầu là hai viên cảnh sát là Min Đơ và Min Toa đến đám tang với khuôn mặt mừng rỡ, hí hửng vì được thuê người giữ trật tự. Còn các vị tai to mặt lớn đến đám tang không vì nghĩa tử là nghĩa tận mà đến đây để ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết. Hàng phố thì vui quá vì chẳng mấy khi họ được xem một đấm ma to như thế theo cà lối Ta – Tàu – Tây, có kiệu, bát cống, lợn quay đi lọng cho đến vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cả cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ . Còn trai thanh gái lịch trong đám ma này thì chỉ bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nha, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma . Cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm từng động tác, giữ tư thế đau buồn để cậu ta chụp ảnh. Ông Phán mọc sừng cứ oặt người đi và khóc trong tay Xuân bên cạnh bố vợ cũng ho khạc mếu máo và ngất đi một cách rất đúng của một người con hiếu thảo. Ông Phán đã lén lút thanh toán món tiền thuê Xuân tóc đỏ giết ông cụ già một cái giấy bạc năm đồng gấp tư . => Đoạn trích: “Hạnh phúc của một tang gia” là một bi hài kịch, phơi bày bản chất nhố nhăng, đồi bại của một gia đình đồng thời phản ánh bộ mặt thật của xã hội thuộng lưu thành thi trước Cách mạng tháng tám 6. Câu 6 : Bi kịch của nhân vật Chí Phèo : Chí Phèo không có cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Mới sinh ra, Chí đã bị vứt bên cạnh cái lò gạch cũ bỏ không qua tay anh bỏ thả ống lươn, người đàn bà goá mù, bác phó cối không có con. Chí bơ vơ từ nhà này sang nhà khác trong thân phận một đứa con hoang thật là thê thảm. Năm hai mươi tuổi, Chí là một thanh niên khoẻ mạnh làm canh điền cho nhà Bá Kiến, chỉ vì một cơn ghen tuông Bá Kiến đẩy Chí vào tù, chấm dứt quãng đời sống lương thiện của Chí, dập tắt luôn ước mơ cháy bòng của một chàng thanh niên về một ngôi nhà nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có tiền thì bỏ một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm sào ruộng làm . Từ một người lương thiện, có lòng tự trọng, biết khinh những cái đáng khinh, có những ước mơ thật bình dị, chỉ sau 7,8 năm ở tù Chí trở thành một tên lưu manh côn đồ . Nhà tù đã cướp đi bộ mặt lương thiện của hắn, biến Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại , cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết . Bá Kiến và nhà tù thực dân đã xô đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi. Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, doạ nạt trong lúc say. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để nhớ rằng hắn có ở trên đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của nhiều người lương thiện. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Trong một cơn say, dưới đêm trăng ngoài bãi vắng, tình yêu đã đến với Chí Phèo và Thị Nở. Lần đầu tiên người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn biết làm duyên, cũng là lần đầu tiên sau chuỗi ngày chìm đắm trong men say và tiếng chửi Chí đã nhận ra ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chai gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn. Trong cái phút tỉnh táo ấy Chí nhận ra tất cả bi kịch của cuộc đời mình. Tình yêu của Thị Nở, sự săn sóc chân tình của Thị Nở đã đánh thức lương tri của Chí. Chí muốn trở thành người lương thiện . M
Tài liệu đính kèm: