Giáo án Lịch sử - Chương 1: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX

Chương 1:

Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX

1.1. Việt Nam thời nguyên thủy

1.1.1. Vài nét về đất nước và con người Việt Nam

- Nước Việt Nam nằm ở đông nam lục địa châu Á, bắc giáp nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tây giáp nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia, đông và nam giáp Biển Đông (Thái Bình Dương), có diện tích 331.991km2 đất liền, 3.200km đường bờ biển và khoảng trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ.

- Việt Nam có vùng địa hình đất liền khá đặc biệt: hai đầu phình ra, ở giữa thu hẹp và kéo dài

+ Địa hình miền Bắc tương đối phức tạp, có nhiều khu rừng rậm, cổ như Cúc Phương, núi cao như đỉnh Phanxipăng 3.143m, xen lẫn với các núi đá vôi ở Cao Bằng, Hòa Bình, Ninh Bình. Sự xâm thực của thời tiết đã tạo nên hàng loạt hang động và quang cảnh nhiều màu nhiều vẻ của vùng đất Bắc. Cùng với rừng rậm là nhiều loại cây ăn quả, hàng trăm giống thú vật đã tạo nên những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự sinh sống và phát triển của con người.

+ Địa hình Trung Bộ với dải Trường Sơn trải dọc phía tây cũng tạo nên nhiều điều kiện cho con người sinh sống, vùng đất đỏ Tây Nguyên được phủ lớp dung nham núi lửa nên bằng phẳng và phì nhiêu, trở thành nơi cư trú của con người và của nhiều loại động thực vật quý hiếm.

+ Nam Bộ là vùng đồng bằng phì nhiêu, những cánh đồng thẳng cánh cò bay, màu mỡ, với hai mùa rõ rệt.

- Việt Nam có nhiều sông ngòi, trong đó có hai con sông lớn nhất là sông Hồng và sông Cửu Long, hai con sông này đã bồi đắp phù sa, bồi lấp vịnh biển tạo nên hai đồng bằng rộng lớn thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và tụ cư của con người bao đời nay.

- Nằm trong khoảng 8030' - 23022' độ vĩ bắc, với chiều dài 15 vĩ tuyến (khoảng 1.600km), Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới và một phần xích đạo, miền Bắc có 4 mùa, miền Trung và miền Nam có 2 mùa (ở mỗi miền lại có những vùng tiểu khí hậu), với đặc điểm là lượng mưa và độ ẩm tương đối lớn, tuy nhiên do vị trí gần biển nên hàng năm bão và nắng hạn thường xuyên đe dọa sản xuất và đời sống của nhân dân.

 

doc 22 trang Người đăng minhkhang45 Lượt xem 729Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án Lịch sử - Chương 1: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại những món lợi lớn.
+ Dưới thời thuộc Đường, sự bóc lột kinh tế nặng nề hơn, nhà Đường thực hiện chính sách tô (thuế ruộng), dung (thuế người), điệu (sản phẩm thủ công).
- Đồng hóa dân tộc, khủng bố và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta:
+ Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng và tinh thần, ngay từ thời Tây Hán, các lễ giáo, phong tục, tập quán, lối sống của người Hán đã được du nhập vào nước ta. Các Thái thú như Tích Quang, Nhâm Diên đã muốn dùng lối sống Hoa nhằm cải biến phong hóa Việt. Người Việt lấy vợ lấy chồng nhất thiết phải theo “lễ nghĩa Trung Quốc”, bắt dân ta phải theo y phục của người Hán.
+ Cùng với việc làm trên, nhà Hán và các triều đại sau này đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo vào xã hội Việt Nam, lấy đó làm công cụ đồng hóa nhân dân ta về mặt tư tưởng.
+ Tiếng Hán và chữ Hán cũng được phổ biến ở Giao Châu nhằm làm công cụ thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán. Trong hơn 1.000 năm, nền văn hóa Hán-Đường đã xâm nhập vào người Việt một cách sâu sắc, song không tiêu diệt được tiếng nói của dân tộc Việt, nhân dân lao động trong các làng xã Việt cổ vẫn duy trì tiếng nói của tổ tiên mình.
+ Chính quyền đô hộ còn đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt, những cuộc di dân như thế diễn ra khi ồ ạt, khi lẻ tẻ nhưng không bao giờ dứt. 
+ Để duy trì nền thống trị và ách áp bức bóc lột, các triều đại phong kiến phương Bắc đã áp dụng luật pháp hà khắc như hình phạt xẻo mũi, thích chữ vào mặt những người chống đối. Chúng sử dụng một đội quân đông đảo, sẵn sàng đàn áp và dìm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong máu.
1.3.2. Những chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã hội
- Về kinh tế: công cụ bằng sắt được dùng phổ biến hơn trong sản xuất nông nghiệp, công cuộc khai hoang mở rộng diện tích được đẩy mạnh, các công trình thủy lợi được mở mang, nhờ thế năng suất lúa tăng hơn trước. Thủ công nghiệp, thương mại có sự chuyển biến đáng kể. Một số nghề mới xuất hiện như làm giấy, làm thủy tinh. Nhiều đường giao thông thủy bộ nối liền các vùng, các quận được hình thành.
- Về văn hóa xã hội: trong thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã biết tiếp nhận những yếu tố tích cực của nền văn hóa Trung Hoa thời Hán, Đường và “Việt hóa” nó, nên trong lĩnh vực văn hóa có những chuyển biến tích cực về ngôn ngữ, văn tự.
+ Nhân dân ta không bị đồng hóa. Tiếng Việt vẫn được bảo tồn, các phong tục tập quán như nhuộm răng, ăn trầu, tôn trọng phụ nữ vẫn được duy trì.
+ Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền phương Bắc. Mặc dù chính quyền đô hộ ngày càng tăng cường bộ máy cai trị nhưng không khống chế được làng xã người Việt. Làng xóm trở thành nơi xuất phát giành độc lập.
+ Trong cảnh bị thống trị, nhân dân ta đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa Việt Nam
1.3.3. Các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc (từ 179 tr.CN đến 938)
- Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống xâm lược Hán (năm 40-43)
+ Dưới ách áp bức của nhà Đông Hán, đặc biệt là sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định, đông đảo các tầng lớp nhân dân ta sục sôi căm thù. Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng đã nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ - Hà Tây), sau đánh chiếm Mê Linh (Vĩnh Phúc), Cổ Loa (Hà Nội) nhân dân ba quận đã hưởng ứng liệt nhiệt, cuộc khởi nghĩa thắng lợi, giành được quyền độc lập tự chủ trong ba năm.
+ Mùa hè năm 42, vua Hán cử Mã Viện và phải dùng một lực lượng quân sự mạnh mới chiếm lại được Giao Chỉ vào năm 43.
- Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (năm 248)
+ Năm 248, Triệu Thị Trinh mới 19 tuổi đã cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt người vùng Quan Yên thuộc quận Cửu Chân (nay là Nông Cống, Thanh Hóa) phất cờ khởi nghĩa. Nhà Ngô hoảng sợ điều Lục Dận sang đàn áp, Triệu Thị Trinh đã chiến đấu dũng cảm rồi hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).
- Cuộc khởi nghĩa của Lí Bí và nhà nước Vạn Xuân (542-603)
+ Mùa xuân năm 542, Lí Bí oán giận nhà Lương bỏ chức quan về quê tụ họp hào kiệt, chiêu mộ quân sĩ phất cờ khởi nghĩa, chỉ sau 3 tháng cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi, thành Long Biên (nay thuộc Bắc Ninh) được giải phóng. Sau khi đánh bại quân xâm lược, đất nước độc lập, tháng 2-544, Lí Bí lên ngôi vua lấy tên là Lí Nam Đế. Ông cho đặt tên nước là Vạn Xuân (mong muốn đất nước bền vững lâu dài), đặt kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ (mong muốn đất nước bền vững), cho dựng ngôi chùa Khai Quốc nay là chùa Trấn Quốc bên Hồ Tây.
+ Tháng 5-545, vua Lương phái quân sang đánh nước ta, do quân Lương quá mạnh, thành vỡ, Lí Nam Đế phải rút lui dần từ Tô Lịch về Gia Ninh (Việt Trì), rồi Phú Thọ. Ông trao lại quyền cho Triệu Quang Phục rồi lấy căn cứ Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) để đóng quân.
+ Lợi dụng thời cơ Trần Bá Tiên bị điều về Trung Quốc dẹp loạn, Triệu Quang Phục xuất quân tiến về giải phóng Long Biên, xưng Dạ Trạch Vương (tức vua Đầm Đêm). Đến năm 550 Triệu Quang Phục đánh đuổi hoàn toàn quân xâm lược giành lại chủ quyền đất nước, xây dựng lại nhà nước Vạn Xuân.
+ Năm 603 nhà Tùy dẹp được cuộc khởi nghĩa và đặt ách đô hộ lại nước ta.
- Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế năm 722)
+ Dưới ách đô hộ của nhà Đường, dân ta vừa phải nộp sưu cao, thuế nặng, lao dịch nặng nề, vừa phải cống nạp phiền nhiễu, đông đảo các tầng lớp nhân dân ta hết sức căm phẫn. Năm 722, Mai Thúc Loan lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, lấy vùng Sa Nam hiểm yếu làm căn cứ chống giặc. Nhà Đường đem 10 vạn quân đến đàn áp, cuộc khởi nghĩa thất bại.
- Khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791)
+ Cuối thế kỷ VIII, nhà Đường bước vào thời kỳ suy yếu, trước tình hình đó Phùng Hưng và em là Phùng Hải đã hô hào nhân dân nổi dậy khởi nghĩa chống nhà Đường đòi độc lập dân tộc. Lợi dụng quân địch ở Tống Bình không chịu tuân lệnh chỉ huy, quân khởi nghĩa bao vây và đánh chiếm được thành, tổ chức lại việc cai trị.
- Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ năm 905
+ Giữa năm 905, nhân lúc vua quan nhà Đường ở Trung Quốc lục đục không thể kiểm soát chặt chẽ nước ta như trước được nữa, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy chiếm được Tống Bình và tự xưng là Tiết độ sứ. Nhà Đường buộc phải công nhận việc đã rồi. Đầu năm 906, vua Đường chính thức phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ, đất nước giành được quyền tự chủ.
- Chống quân Nam Hán năm 930. Dương Đình Nghệ khôi phục nền độc lập
+ Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mĩ lên thay, vẫn xưng Tiết độ sứ. Mượn cớ Khúc Thừa Mỹ không chịu thần phục, mùa thu năm 930 vua Hán huy động một lực lượng lớn cả quân thủy và bộ tấn công nước ta. Khúc Thừa Mỹ chống cự không được bị bắt đem về Quảng Châu, quân Nam Hán tàn phá nước ta rồi đem quân chiếm đóng thành Đại La.
+ Nhân dân ta không chịu khuất phục, mùa xuân năm 931, một tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ từ làng Ràng (Thiệu Hóa, Thanh Hóa) đem quân ra Bắc, quân Nam Hán lo sợ phải cho người về nước cầu cứu. Viện binh của địch chưa kịp đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã dẫn quân đánh chiếm thành Đại La. Sau đó ông tổ chức lực lượng đánh quân tiếp viện và thắng lớn, quân giặc bị đuổi ra khỏi nước ta. Dương Đình Nghệ xưng là Tiết độ sứ. Quyền tự chủ của đất nước một lần nữa được khôi phục.
- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938
+ Năm 937, Dương Đình Nghệ bị một tướng dưới quyền là Kiều Công Tiễn giết để đoạt chức Tiết độ sứ. Ngô Quyền bấy giờ đang trấn giữ ở châu Ái (Thanh Hóa) kéo quân ra Bắc trị tội tên phản bội. Khi quân Nam Hán còn đang ngoài bờ cõi nước ta, Ngô Quyền đã giết chết Bùi Công Tiễn, đồng thời lo tổ chức toàn dân chống giặc. Ông bàn với các tướng sĩ sẽ đóng cọc trên sông Bạch Đằng, lợi dụng quy luật của thủy triều để tiêu diệt quân địch.
+ Kế hoạch được tướng sĩ ba quân hưởng ứng, hàng ngàn chiếc cọc gỗ vót nhọn đầu bịt sắt được đóng xuống lòng sông Bạch Đằng. Căn cứ vào quy luật của thủy triều, ông nhử địch vào sâu rồi cho quân ra nghênh chiến, quân giặc mắc mưu rơi vào ổ phục kích của ta, toàn bộ số quân thủy của địch bị quân ta mai phục từ hai bên bờ bất ngờ tấn công phá vỡ đội hình. Hoảng sợ chúng bỏ chạy và bị cọc chọc thủng, thuyền vỡ và đắm rất nhiều, tướng giặc là Hoằng Tháo bỏ mạng tại đây. Vua Nam Hán nghe tin con bị chết trận, thu quân rút về nước. Ý đồ xâm lược của quân Nam Hán bị đè bẹp.
+ Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ (905), chiến thắng Bạch Đằng năm 938 chấm đã dứt thời kỳ nhân dân ta bị phong kiến Trung Quốc đô hộ, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài của Tổ quốc.
- Nguyên nhân thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc
+ Về mặt chủ quan, chúng ta bước vào thời kỳ Bắc thuộc từ những thành tựu rực rỡ của lịch sử và văn hóa. Đó là hàng chục vạn năm văn hóa tiền sử và nền văn hóa Đông Sơn đã định hình lối sống, cá tính và truyền thống Việt Nam. Đó là một cơ cấu văn minh riêng, một thể chế chính trị, xã hội riêng xác lập những cơ sở ban đầu nhưng rất vững chắc về ý thức quốc gia, dân tộc.
+ Về mặt khách quan, nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc tuy hết sức tàn bạo và nguy hiểm, nhưng cũng bộc lộ nhiều chỗ yếu căn bản của nó. Thời kỳ Bắc thuộc tuy kéo dài hơn nghìn năm, nhưng lại có nhiều gián đoạn bởi nhân dân ta đấu tranh và nhiều lần giành được độc lập tạm thời.
+ Bộ máy chính quyền đô hộ với tất cả khả năng và dù có cố gắng đến mức cao nhất cũng không làm sao trực tiếp kiểm soát và khống chế được toàn bộ lãnh thổ nước ta.
+ Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tài chỉ huy của những người lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa: biết nắm bắt thời cơ, biết mình, biết người, biết thu phục lòng dân, chọn cách đánh thích hợp, đối với từng kẻ thù, biết lợi dụng những điều kiện tự nhiên như sông nước, thủy triều để thắng địch.
1.4. Đại Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
1.4.1. Quá trình hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam (thế kỉ X – XV)
- Thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê (939-1009)
+ Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng Vương, bãi bỏ tổ chức cai trị của nhà Đường và chế độ Tiết độ sứ, xây dựng triều đình mới theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội). Năm 944 Ngô Quyền mất, hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn còn nhỏ tuổi, người em vợ của ông là Dương Tam Kha cướp ngôi, các phe phái tranh chấp lẫn nhau quyền lực, tình hình trong triều mất thế ổn định. Sau khi lật đổ Dương Tam Kha, anh em họ Ngô thay nhau trông coi việc nước, nhưng uy tín nhà Ngô đã giảm sút, đất nước ngày càng thêm hỗn loạn.
+ Năm 965 xảy ra loạn 12 sứ quân, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân khó khăn. Dẹp xong các sứ quân, năm 969, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (thường gọi là Đinh Tiên Hoàng), đặt tên nước là Đại Việt, chọn Hoa Lư (Ninh Bình) làm nơi đóng đô, xây dựng cung điện. Năm 970 bỏ không dùng niên hiệu của các hoàng đế Trung Hoa, đặt niên hiệu mới là Thái Bình, tổ chức lại quân đội, thực hiện chính sách ngoại giao hòa hiếu với nhà Tống ở phương Bắc.
+ Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị Đỗ Thích là một viên quan nhỏ lẻn vào giết chết, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngôi, ở bên ngoài nhà Tống chuẩn bị kế hoạch xâm lược nước ta, được sự ủng hộ và suy tôn của Dương thị (Dương Thái hậu - mẹ Đinh Toàn), các quan đồng lòng cử Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế (“lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn”).
+ Tổ chức nhà nước thời Lê Hoàn so với thời Khúc, Ngô, Đinh từng bước được kiện toàn nhất là ở triều đình trung ương, trở thành một chính quyền độc lập, tự chủ, tuy nhiên còn đơn giản, các hoạt động của nhà nước chưa được thể chế hóa, việc lực chọn quan lại chưa có chế độ rõ ràng. Nhà Tiền Lê tồn tại và phát triển từ 980 đến năm 1009.
- Từ thế kỉ XI – XV: phát triển và hoàn chỉnh nhà nước phong kiến
 Triều đại nhà Lý (1010-1225)
 Sau khi vua Lê Long Đĩnh chết, được sự ủng hộ của các đại thần và sư tăng đứng đầu là nhà sư Vạn Hạnh, các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Năm 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, mở ra triều đại nhà Lý.
+ Năm 1010, nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Lý Công Uẩn chăm lo tổ chức chính quyền trung ương và địa phương. Năm 1054, đổi tên nước là Đại Việt, chia cả nước thành 24 lộ, phủ, dưới là huyện và hương.
+ Tổ chức lại chính quyền quân chủ: đứng đầu nhà nước là vua, giúp việc vua có quan đại thần, bên dưới là các quan văn võ. 
+ Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ Hình thư, đó là bộ luật đầu tiên của nước ta. Quân đội gồm hai bộ phận: cấm quân và địa phương quân; có các binh chủng: bộ, thủy, kỵ và tượng binh. Vũ khí gồm giáo mác, cung nỏ, máy bắn đá. Từ thời nhà Lý, đã thi hành chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi lính về nhà nông).
+ Nhà Lý chú ý xây dựng tình đoàn kết các dân tộc trong nước, đặc biệt là các dân tộc thiếu số. Luôn giữ quan hệ hữu hảo với nhà Tống.
 Triều đại nhà Trần (1226-1400)
 Do nhà vua cuối cùng của họ Lý không có con trai, nên nhường ngôi cho con gái. Các quan đại thần họ Trần đã cho rằng đất nước đang lâm nguy, buộc Lý Chiêu Hoàng (7 tuổi) phải nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh mới (6 tuổi). Trong những năm Trần Cảnh nhỏ tuổi, Trần Thủ Độ quán xuyến mọi công việc.
+ Về xây dựng chính quyền: đứng đầu nhà nước là vua, nhà Trần đặt lệ nhường ngôi cho con từ rất sớm và xưng là Thái Thượng hoàng. Các chức đại thần văn võ được giao cho người trong họ nắm giữ. Đặt thêm một số chức quan như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ, Đồn điền sứ.
+ Cả nước được chia thành 12 lộ, đứng đầu có các chức chánh phó An phủ sứ. Dưới là phủ, châu, huyện, do các chức tri phủ, tri huyện trông coi. Năm 1307, nhà Trần đổi hai châu Ô và Lý thu nạp của Champa thành châu Thuận và châu Hóa. Dưới cùng là xã. Bên cạnh các chức do dân cử, nhà Trần còn đặt thêm một xã quan.
+ Nhà nước ban hành bộ Hình luật, xác định lại những điều ban hành dưới triều Lý, chế độ tư hữu được bảo vệ, việc nuôi nô tì không bị hạn chế như trước.
+ Nhà Trần cho xây dựng một quân đội mạnh. Đạo quân Thiên Thuộc chuyên bảo vệ nhà vua và hoàng thành được tuyển chọn kỹ tại vùng quê họ Trần (Tức Mạc - Nam Định). Quân đội luyện tập đều đặn và dưới sự chỉ huy của các tướng có kinh nghiệm. Con em vương hầu quý tộc được chọn vào học ở Giảng Võ đường (phía tây thành Thăng Long) nhằm đào tạo thành võ quan cao cấp.
+ Nhà Trần rất chú trọng đến việc bảo vệ những vùng trọng yếu và biên giới, một số tướng giỏi, tin cậy được cử cầm quân trấn giữ mạn Bắc. Việc cai quản các lộ Thanh Hóa, Nghệ An được giao cho con em vua. Đối với Champa, nhà Trần chủ trương đặt quan hệ thân thiết.
 Vương triều Hồ (1400-1407)
 Từ nửa sau thế kỷ XIV, xã hội Đại Việt rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, nhà Trần rơi vào tình thế rất khó khăn, năm 1400 Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần, thành lập nhà Hồ và đưa ra những cải cách chính trị, quân sự, kinh tế - tài chính, văn hóa giáo dục nhằm cứu vãn Đại Việt. Những cải cách của Hồ Qúy Ly đụng chạm đến tất cả các tầng lớp nhân dân và mọi hoạt động của xã hội nên tác dụng trên thực tế không nhiều.
 Thời nhà Lê (1427-1527)
 Năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo thắng lợi. Tháng 4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long). Nhà Lê khôi phục lại tên nước Đại Việt, tiếp tục xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
+ Vua có quyền hành tuyệt đối, tự xưng là “Thiên tử”. Giúp việc vua là các quan Thượng thư đứng đầu các bộ. Bên cạnh bộ có Hàn lâm viện (cơ quan soạn thảo công văn), Quốc tử giám (cơ quan phụ trách giáo dục), Ngự sử đài (cơ quan kiểm tra, kiểm soát). Để tập trung quyền hành nhà Lê bỏ chức Tể tướng, vua trực tiếp là tổng chỉ huy quân đội.
+ Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo (năm 1471 lập thêm đạo Quảng Nam), dưới đạo là phủ, huyện (miền núi là châu), xã. Năm 1471, bản đồ 13 đạo được hoàn thành.
+ Quân đội nhà Lê có khoảng 8 vạn bao gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh, kỵ binh, ngoài ra còn có các đơn vị chuyên dùng súng lửa gọi là hỏa đồng. Đây là quân đội hùng mạnh, có bản lĩnh chính trị cao, chế độ huấn luyện khá chặt chẽ, các võ quan cao cấp được huấn luyện võ nghệ, học hỏi binh pháp tại Giảng Võ đường Thăng Long.
+ Các vua thời Lê đều rất chú ý xây dựng luật pháp. Đến đời vua Lê Thánh Tông, bộ Luật Hồng Đức được ban hành (còn gọi là Lê triều hình luật bao gồm 721 điều, chia làm 6 quyển). Các vua nhà Lê rất chú ý đến việc bảo vệ biên cương và đoàn kết dân tộc.
- Nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI - XVIII
Vương triều Mạc (1527-1592)
+ Thời kỳ nhà Lê, chế độ phong kiến Việt Nam phát triển hưng thịnh, tuy nhiên bước sang thế kỷ XVI nhà nước trung ương tập quyền rơi dần vào khủng hoảng. Năm 1527 Mạc Đăng Dung truất ngôi vua Lê, lập ra triều Mạc. Phạm vi cai trị của nhà Mạc lúc đầu bao gồm toàn bộ lãnh thổ Đại Việt thời Lê Sơ, nhưng từ năm 1546 khi Nam triều được thành lập ở Thanh Hóa (chính quyền của nhà Lê Trung Hưng) thì phạm vi này bị thu hẹp từ Ninh Bình trở ra Bắc.
+ Triều đình nhà Mạc cũng gồm đủ các ban văn võ. Đứng đầu là nhà vua. Để xây dựng một đội ngũ quan lại trung thành với triều đại mình, nhà Mạc đẩy mạnh chế độ thi cử (cứ 3 năm tổ chức 1 kỳ thi, kể cả khi chiến tranh với Nam triều).
+ Nhà Mạc rất chú ý xây dựng quân đội, cho thực hiện chính sách lộc điền với quân lính.
+ Trong chính sách đối ngoại, nhà Mạc đã đầu hàng nhục nhã nhà Minh. Năm 1527 cử phái đoàn sang Trung Quốc xin được thay nhà Lê thống trị đất nước.
Đất nước bị chia cắt: Sự thành lập Nam triều
+ Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), Nguyễn Kim (cựu thần của nhà Lê) chạy vào Thanh Hóa lập Lê Duy Ninh làm vua. Năm 1539 đánh chiếm Thanh Hóa, năm 1540 đánh Nghệ An. Từ đó địa phận từ Thanh Hóa trở vào thuộc quyền cai trị của nhà Lê (sử cũ gọi là Nam triều). Năm 1545 Nguyễn Kim bị giết, quyền hành rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm.
+ Cuộc chiến tranh Nam triều với Bắc triều kéo dài 47 năm (1546-1592), thắng lợi thuộc về phía Nam triều. Tháng 12-1592 nhà Mạc bị tiêu diệt.
Chiến tranh Trịnh – Nguyễn (1627-1672)
+ Từ khi Nguyễn Kim bị giết, nội bộ Nam triều đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa hai dòng họ phong kiến Trịnh - Nguyễn. Năm 1558 Nguyễn Hoàng là con thứ của Nguyễn Kim sợ anh rể giết đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa. Bề ngoài vẫn giữ làm tròn bổn phận với Nam triều, nhưng bên trong ra sức xây dựng thế lực cát cứ chống lại họ Trịnh.
+ Năm 1613 Nguyễn Hoàng qua đời, con là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay cha đẩy nhanh công cuộc cát cứ, thải hồi các quan lại do họ Trịnh phái vào, cắt đứt sự lệ thuộc vào họ Trịnh. Tổ chức lại chính quyền trung ương, không chịu nộp thuế cho nhà Trịnh. Hành động này đã làm cho mâu thuẫn Trịnh-Nguyễn thêm gay gắt.
+ Từ 1627 - 1672, 2 bên đã đánh nhau 7 lần, trong đó có 6 lần quân Trịnh chủ động, kết quả không bên nào thắng, sông Gianh được lấy làm giới tuyến chia đôi đất nước. Từ đây sử cũ gọi là Đàng Trong, Đàng Ngoài. Ở Đàng Ngoài, từ 1595 về sau, Trịnh Tùng và con cháu kế vị đều xưng vương nhân dân gọi là “chúa Trịnh”. Họ Trịnh không cướp ngôi vua, nhưng biến vua Lê thành bù nhìn để giữ danh nghĩa chính thống, chống lại các phe phái đối lập. Trên thực tế, họ Trịnh nắm toàn quyền thống trị. Ở Đàng Trong, họ Nguyễn nắm chính quyền, nhân dân quen gọi là “chúa Nguyễn”.
 Tình trạng đất nước bị phân chia thành hai miền kéo dài đến cuối thế kỷ XVIII.
- Chế độ phong kiến Việt Nam từ đầu thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
+ Ở Đàng Ngoài, từ 1595 Trịnh Tùng và các con cháu họ Trịnh đều xưng vương, dù không cướp ngôi nhưng họ Trịnh thâu tóm mọi quyền hành. Đến nửa sau thế kỷ XVIII chính quyền phong kiến Đàng Ngoài đã mục nát đến cực độ, vua Lê chỉ là cái bóng mờ nhạt trong cung cấm. Các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra liên tiếp làm cho chính quyền họ Trịnh bị lung lay, suy yếu, tạo điều kiện cho phong trào nông dân Tây Sơn sau này thu được thắng lợi nhanh chóng.
+ Nửa sau thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Trong rơi vào khủng hoảng, việc mua quan bán tước trở nên phổ biến. Trong triều đình, tập đoàn Trương Phúc Loan tự xưng là Quốc phó, giết hại những ai chống đối. Quý tộc thì đua nhau ăn chơi hưởng lạc. Nông dân ngày càng cơ cực do bị bóc lột nặng nề, ruộng đất công làng xã bị bọn cường hào lấn chiếm. Ruộng tư của nhân dân vốn rất ít lại bị bọn địa chủ cướp đoạt. Cảnh sống ngột ngạt đã làm tăng nỗi bất bình oán giận chính quyền họ Nguyễn.
Vương triều Quang Trung
+ Sau chiến thắng chống ngoại xâm (1789), bộ chỉ huy quân Tây Sơn chuyển hóa thành bộ máy nhà nước phong kiến. Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân (Nguyễn Nhạc là Trung ương Hoàng đế đóng đô ở Quy Nhơn; Nguyễn Lữ là Đông Định Vương đóng đô ở Gia Định; Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương, đóng đô ở Phú Xuân).
+ Quang Trung đã có nhiều biện pháp khôi phục kinh tế và ổn định xã hội, phát triển giáo dục. Ông ban hành Chiếu khuyến nông, thực hiện chế độ quân điền, nhiều loại thuế được giảm nhẹ, mở cửa buôn bán với nhà Thanh, thủ công nghiệp và buôn bán được phục hồi dần.
+ Quang Trung còn cho soạn bộ luật mới Hình thư, nhanh chóng tổ chức lại chính quyền từ trung ương đến xã, huyện, ban hành chế độ tín bài bắt buộc người dân phải thường xuyên mang theo.
+ Đề phòng mối đe dọa từ phương Bắc (nhà Thanh), phía Nam (Nguyễn Ánh), Quang Trung tăng cường khả năng quốc phòng và thi hành chính sách ngoại giao tích cực. Nhà Thanh phải công nhận Quang Trung là Quốc vương, cam kết không giúp đỡ tập đoàn Lê Chiêu Thống. Trong khi sự nghiệp dang dở, ông bị bệnh nặng và chết năm 1792 khi mới 39 tuổi.
Vương triều Nguyễn (1802-1945)
+ Quang Trung mất, con là Quang Toản lên thay, nhưng không điều khiển được việc nước. Trong khi đó anh em Tây Sơn lại mâu thuẫn, Nguyễn Ánh đã lợi dụng thành công mâu thuẫn này để thiết lập nên triều Nguyễn. Từ năm 1787, Nguyễn Ánh đem quân từ Xiêm về chiếm lại đất Gia Định, sau đó ra sức củng cố lực lượng của mình.
+ Năm 1792 Quang Trung mất, triều đại Tây Sơn mất đi trụ cột vững chắc nhất. Năm 1802, được sự ủng hộ của bọn địa chủ Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn, thiết lập nên triều Nguyễn. Năm 1804 đổi tên nước là Việt Nam, sau đổi thành Đại Nam.
+ Nhà Nguyễn tăng cường củng cố nhà nước quân chủ chuyên chế, chọn Phú Xuân làm kinh đô. Vua Nguyễn trực tiếp nắm mọi công việc hệ trọng trong nước. Dưới vua là 6 bộ giải quyết các công việc cụ thể. Năm 1830-1831, nhà Nguyễn bỏ tổng, trấn thành lập 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên. Đứng đầu tỉnh có các chức Tổng đốc, Tuần phủ, trực ti

Tài liệu đính kèm:

  • docLICH SU VIET NAM TU NGUON GOC_12262578.doc