Giáo án Ngữ văn lớp 12 - Tây Tiến - Quang Dũng

A.Tìm hiểu chung

I.Tác giả

- Quang Dũng (1921 – 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Đan Phượng – Hà Tây (nay là Hà Nội).

- Sau cách mạng tháng Tám – 1945, Quang Dũng tham gia quân đội. Đến sau 1954, ông là biên tập viên NXN Văn học.

- Sự nghiệp:

+ Quang Dũng là 1 nghệ sỹ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh,soạn nhạc,. nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính và xứ Đoài – Sơn Tây.

 

doc 16 trang Người đăng trung218 Lượt xem 2919Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn lớp 12 - Tây Tiến - Quang Dũng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội, một mình băng qua núi rừng hùng vỹ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sỹ Tây Tiến. Vì thế sông Mã vừa là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vỹ vừa là hình ảnh hoán dụ cho mảnh đất miền Tây. Sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, từng chứng kiến và sẻ chia buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” đưa tiễn tử sỹ. Sông Mã chứa đựng đầy kỷ niệm về đoàn quân Tây Tiến năm xưa. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng của nỗi niềm xao xuyến, nhớ nhung.
+ Nhịp thơ 4/3, dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có 1 phút ngừng lặng để nhận ra sự trống trải mênh mông trong thực tại, bởi “sông Mã xa rồi”, đã thuộc về quá khứ một đi không trở lại. Hiện tại như mờ đi, nỗi nhớ như ùa vào trong tiếng gọi thiết tha “TT ơi!”. Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ được cụ thể trong câu thơ tiếp theo:
	“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
+ Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ. Chỉ trên 1 dòng thơ tác giả điệp lại 2 từ “nhớ” khiến cho cảm xúc như chồng chất, dường như chỉ vừa chạm đến là cả một không gian quá khứ hiện về...
Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, về đoàn quân Tây Tiến và về những năm tháng quá khứ không thể nào quên.
*12 câu tiếp:
Nỗi nhớ thiên nhiên
Thông qua những nét vẽ tài hoa, vừa chân thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền tây heo hút, hiểm trở nhưng hùng vỹ, thơ mộng xiết bao kỳ thú.
-Sương:
(bình)Nét đặc sắc của thiên nhiên miền tây trong ký ức của Quang Dũng chính là màn sương kỳ ảo; sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát và hình như đó không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ nhạt nhòa của kỷ niệm, của nỗi nhớ thương):
	“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
	Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+Bút pháp hiện thực: đã miêu tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền tây qua 1 đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm của câu thơ rơi vào chữ “lấp” – 1 động từ có sức gợi tả màn sương mênh mông, dày đặc, che kín cả 1 “đoàn quân”, trùm phủ cả núi rừng khiến con đường hành quân của người chiến sỹ thêm vất vả, gian nan.
+ Cụm từ “hoa về trong đêm hơi” gợi liên tưởng đêm sương là “đêm hơi” bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường được nhìn như những đóa hoa lung linh, huyền ảo. Cũng có thể hiểu đây là hương hoa rừng vương vấn đượm trong sương đêm. Dù hiểu theo nghĩa nào thì đây cũng là câu thơ của cảm hứng lãng mạn. Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ không chỉ làm đậm thêm sắc thái hư ảo của màn sương mà như còn tái hiện trạng thái mơ mộng, bay bổng trong tâm hồn chiến sỹ. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây đã được cảm nhận 1 cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
*Dốc núi
- Nhớ đến miền Tây không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vỹ vô cùng của dốc núi. 3 câu tiếp theo đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vỹ và hiểm trở, qua đó tái hiện lại cuộc hành quân gian lao, ý chí bất khuất, kiên cường và tinh thấn lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
 Đọc đoạn thơ này, độc giả có thể nhớ tới con đường khó khăn lên xứ Thục trong thơ Lý Bạch xưa:
	“Thục đạo nan! Thục đạo nan!
	Nan ư thướng thiên thanh”
Nghĩa là: “Đường lên xứ Thục khó thay
	Khó như đi lên trời xanh”
+ Câu đầu: Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc đã tạo nên âm hưởng gập ghềnh cho 1 câu thơ 7 chữ, khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân của người lính Tây Tiến trong 1 địa hình mà nỗi vất vả, nhọc nhằn hiện hình ra từng câu chữ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu 2 vế câu thể hiện sự trùng điệp chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, phần nào gợi ra sự nhọc nhằn của người lính trên con đường hành quân, con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, rừng núi miền tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh. 
-Dốc núi miền tây còn được gợi tả về độ cao chót vót. Chỉ bằng 4 câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra 1 bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang sơ và heo hút của núi rừng miền tây. Những từ ngữ giàu giá trị tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, heo hút”, “cồn mây”, “súng ngửi trời” đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền tây. Đặc biệt, cụm từ “súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có tính chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”, người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. 
+Câu thứ 3 như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. 
+Đọc câu thứ 4 có thể hình dung ra cảnh người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa, qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo một âm hưởng đặc biệt. Sau 3 câu được vẽ bằng nét gân guốc, câu thứ 4 được vẽ bằng một nét rất mềm mại, làm dịu lại cả khổ thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
-Núi rừng miền tây được miêu tả bằng những nét đầy ấn tượng:
	“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
	Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+“Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa góp phần làm tăng thêm sự dữ dội, hoang sơ, đầy bí ẩn của núi rừng miền Tây. Những tên đất lạ, những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bởi những câu có nhiều vần bằng ở cuối khổ thơ đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng vừa độc đáo của núi rừng miền tây tổ quốc.
+“chiều chiều” và “đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian lặp lại triền miên. Sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên đã ngự trị nơi núi rừng không phải chỉ 1 sớm 1 chiều mà là sự ngự trị muôn đời! Nhưng đây cũng chính là khoảng thời gian gắn với cuộc hành quân của người lính, chính điều này khiến chân dung người chiến sỹ thêm hào hùng, mạnh mẽ: các anh đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng người, các anh đã in dấu chân mình trên những vùng đất tưởng chừng chỉ là lãnh địa của mây trời heo hút, của thiên nhiên bí ẩn, thâm u, các anh đã vượt qua tất cả những gian truân bằng lòng dũng cảm và 1 khí phách kiên cường.
b.Ký ức về người lính Tây Tiến trên con đường hành quân
Trên nền của con đường vạn lý trường chinh ấy, nét bút của Quang Dũng đã khắc họa hính ảnh người lính Tây Tiến.
- Đó là hình ảnh 1 đoàn quân mệt mỏi, rã rời như đang bị vùi lấp trong màn sương dày đặc của núi rừng Sài Khao... trong đoàn quân ấy có biết bao người lính trẻ kiệt sức và gục ngã trên đường đi:
	“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
	Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
+Từ láy “dãi dầu”: diễn tả sự vất vả, nhọc nhằn của người lính khi cuộc hành quân kéo dài ngày này qua ngày khác.
+Hình ảnh nguời lính gục xuống khi đang hành quân nhưng súng mũ vẫn bên mình là một hình ảnh đẹp. Dường như anh đã dấn bước đến hơi thở cuối cùng chứ nhất quyết không rời đội ngũ. Phải là sự cố gắng bền bỉ lắm trong ý chí và nghị lực mới có động từ “gục” là chấp nhận hoàn cảnh; phải là khó khăn lắm thì mới làm cho sức trai kia không thể bước tiếp. Cách nói “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đã làm hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàng của những chiến binh dãi dầu mưa nắng. Có thể người lính phong trần đang buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, cũng có thể đây là 1 thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức hi sinh ngay trên đường đi. Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ vẫn làm hiện lên vẻ đẹp hào hùng ý chí kiên cường của người chiến sỹ sẵn sàng đương đầu với mọi gian truân.
 - Kỷ niệm ngọt ngào, thấm đẫm ân tình: Con đường hành quân của người lính TT không chỉ có những gian truân, vất vả, họ còn có những phút giây hạnh phúc khi dừng chân bên 1 bản làng có xôi nếp thơm và cả những thiếu nữ tình tứ, xinh đẹp;
	“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
	Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
+ Cụm từ cảm thán “nhớ ôi” bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt về bản làng ở miền Tây xa xôi, về những người chị người mẹ đảm đang mà hình ảnh này ta đã từng bắt gặp trong thơ Chế Lan Viên:
	“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”
+ Hình ảnh “”cơm lên khói” và “thơm nếp xôi”: là hình ảnh quen thuộc, gần gũi, gợi lên hương vị của tình người, tình quân dân.
+ Cụm từ “mùa em” gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sỹ TT dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngọt ngào hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các thiếu nữ Mai Châu. Cũng có thể hiểu theo 1 nét nghĩa lãng mạn do 2 từ “mùa em”. Người ta thường nói về “mùa hoa”, “mùa quả”,...đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp sắc hương và hoa trái,... Quang Dũng đã tạo ra tạo ra 1 nét nghĩa mới mẻ, táo bạo và đa tình trong tập hợp từ “mùa em” khiến cho Mai Châu không chỉ là 1 địa danh gắn với kỷ niệm thơm thảo của xôi nếp và tình quân dân, Mai Châu còn gợi nhớ đến hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng, có khi còn gắn với một mối tình trong sáng của anh chiến sỹ TT nào đó? Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến tới ngây ngất đê mê trong tâm hồn những chàng trai đất Hà thành hào hoa, lãng mạn.
2.Những kỷ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Đoạn thơ thứ 2 mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn nhường chỗ cho vẻ đẹp mỹ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ mạnh bạo, khỏe khoắn, gân guốc ở đoạn thơ đầu đến đây được thay bằng những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Sự tinh tế, tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
a.Kỷ niệm về đêm lửa trại (4 câu đầu)
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
- Hình ảnh “hội đuốc hoa”: đây là lần thứ 2, lửa và đuốc được liên tưởng tới như hoa. Nếu trong sương đêm Mường Lát, chiễn sỹ TT nhìn đuốc soi đường mà như thấy “hoa về trong đêm hơi” thì lần này, trong 1 đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây, nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ. Hình ảnh này như làm mờ đi tất cả hiện thực gian khổ và khốc liệt mà người lính đã phải trải qua trên đường hành quân.
- Cụm từ “bừng lên”: là 1 động từ mạnh, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lòa đột ngột của lửa đuốc xua đi cái tăm tối của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người.
- Hình ảnh trung tâm của “hội đuốc hoa” chính là các thiếu nữ miền sơn cước:
	“Kìa em xiêm áo từ bao giờ”
+ Hai chữ “kìa em” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng, vừa ngưỡng mộ, trìu mến của các chiến sỹ trước vẻ đẹp của các cô sơn nữ. Nếu theo mạch liên tưởng với câu đầu thì đến đây, QD bất ngờ đưa đến 1 cảm nhận thú vị: “doanh trại bừng lên” không chỉ bởi ánh sáng của lửa đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây. 
+ Tác giả TT đã sử dụng thủ pháp đối lập khi nói về đoàn quân TT ở đoạn trên và khi miêu tả các cô sơn nữ. Nét đẹp duyên dáng, đầy nữ tính của người con gái miền Tây trong “xiêm áo” lộng lẫy với vẻ “e ấp”, thẹn thùng đối lập với đoàn quân đang “xanh màu lá”, “dữ oai hùm’. Nét tương phản của cảm hứng lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều sự khắc nghiệt của chiến tranh.
+ Người lính TT không chỉ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của các sơn nữ mà còn mơ màng trong “man điệu” của núi rừng. Với tâm hồn hào hoa nghệ sỹ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính TT say đắm trước cảnh và người miền Tây trong đêm lửa trại, để thả hồn phiêu du, bay bổng trong thế giới mộng mơ, và để “xây hồn thơ” trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ.
Những dòng thơ cứ ngân dài như những nốt nhác vui xao xuyến mãi trong lòng người. Bởi lẽ trước mắt người lính TT như không còn bao thiếu thốn, mất mát, hi sinh. Bởi lẽ tất cả những gian khổ, khốc liệt kia đã không thể chạm tới tâm hồn hào hoa lãng mạn của họ. Họ có thể dãi dầu cùng sương gió, ngang tàng trước gian nan thử thách, oai nghiêm, dữ dằn khi đối mặt với quân thù,...nhưng sâu thẳm trong con người họ vẫn vẹn nguyên trái tim trẻ trung, vẫn rạo rực khát khao yêu thương và được yêu thương.
b.Cảnh sông nước miền Tây(4 câu tiếp)
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mông, mờ ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Lời nhắn nhủ đọc lên nghe rõ ràng, cụ thể, vì có cả đối tượng (người đi), có cả thời gian (chiều sương), có không gian cụ thể (Châu Mộc), nhưng thực ra lại hết sức mơ hồ bởi đại từ phiếm chỉ “ấy”. Nỗi nhớ miền Tây do đó được gửi vào 1 chiều sương nhạt nhòa kỷ niệm, giờ chỉ còn là sự lưu luyến cho người đang ở đất Phù Lưu Chanh...
- Hàng loạt câu hỏi tu từ “Có thấy...Có nhớ..?” cùng phép điệp cấu trúc đã thể hiện nỗi nhớ nhung, trăn trở về cảnh và người miền Tây.
+ Hình ảnh nhân hóa “hồn lau” gợi lên sắc trắng của hoa lau nhạt nhòa trong chiều sương mờ ảo khiến cho rừng lau như có hồn, biết sẻ chia vui buồn, biết giao cảm với người lính trên đường hành quân. Nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, hình dung về những hàng lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xao xuyến trong lòng người chiến sỹ.
+ Hình ảnh “dáng người trên độc mộc” gợi liên tưởng tới những cô gái Thái hay những người lao động đang mải miết chèo thuyền băng qua thác lũ. 
+ Hình ảnh “hoa đong đưa”: Nếu từ láy “đung đưa” gợi hình hơn biểu cảm, chủ yếu miêu tả cánh hoa dập dờn bên hai bờ sông, thì từ “đong đưa” không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về cảnh và người miền Tây mặc dù đối diện với thác lũ nhưng vẫn đẹp, vẫn duyên dáng, tình tứ. Đó là 1 sáng tạo mới mẻ về sử dụng ngôn từ, thể hiện nét lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng.
Tiểu kết: Đoạn thơ đã sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, bút pháp lãng mạn khắc họa vẻ đẹp thơ mộng của cảnh và người miền Tây. Ta hiểu hơn về người lính TT, dù cuộc sống gian khổ nhưng tâm hồn họ vẫn chan chứa tình yêu con người và cuộc sống. Tình yêu ấy đã trở thành sức mạnh nâng đỡ họ trên con đường vạn lý trường chinh.
3.Chân dung người lính Tây Tiến.
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng (đoạn 1), và duyên dáng, mỹ lệ của miền Tây (đoạn 2), đến đọan 3, hình tượng tập thể những người lính TT xuất hiện với 1 vẻ đậm chất bi tráng.
*4 câu đầu: vẻ đẹp bi tráng của người lính TT:
	“TT đoàn binh không mọc tóc 
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ 1 hiện thực trong cuộc sống của người lính TT: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của QD, người lính TT hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, QD vẫn dùng từ “đoàn binh” – gợi cảm giác về 1 đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.
+ Hình ảnh “quân xanh màu lá” ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả doàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của QD khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.
Đặc biệt, kết hợp từ “dữ oai hùm” gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính cũng có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.
Liên hệ: Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:
	“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
	Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
	(“Đồng chí” – Chính Hữu)
	“Giọt giọt mồ hôi rơi
	Trên má anh vàng nghệ”
	(“Cá nước” – Tố Hữu)
Hiện thực ấy đối với đoàn quân TT lại càng khốc liệt hơn do địa bàn hoạt động của họ... Nhà thơ Trần Lê Văn – 1 thành viên trong đoàn quân TT từng kể lại: “lính TT chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì súng đạn”. Còn nhạc sỹ Lê Trang – chính trị viên của TT từng sáng tác bài “Tiếng cồng quân y” để miêu tả những âm thanh vang lên vào mỗi buổi chiều báo hiệu có những người đồng đội nằm xuống vì căn bệnh hiểm nghèo này. Quang Dũng cũng không hề che giấu những gian khổ, khó khăn và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều tất cả những cái đó qua ngòi bút của ông, không được miêu tả 1 cách trần trụi mà bằng 1 cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Bức tượng đài người chiến sỹ TT không chỉ có nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ dữ dằn, uy nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu tâm hồn: 
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
+ chỉ 1 từ “trừng” tả ánh mắt hướng thẳng về phía trước cũng đủ nói lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng ấy được gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của những người trai thời loạn.
+ Những người con trai Hà Nội ra đi vì sức gọi mãnh liệt của lý tưởng, nhưng trái tim họ vẫn dành một góc nhớ nhung, lưu luyến về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Theo mạch cảm xúc thơ, có thể hiểu người thanh niên đất Hà thành đang nhớ về quê hương, nhớ về Thủ đô hoa lệ, đẹp như ‘dáng liều thơm”. Cũng có thể hiểu đó là nỗi nhớ về thiếu nữ Hà Nội kiều diễm, đáng yêu, nơi đặt trọn cảm xúc của mối tình đầu trong sáng.
Liên hệ: Cũng như hình ảnh “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” trong 1 sáng tác vào mùa thu trước CM, và sau đó là người lính trong:
	“Những đêm dài hành quân nung nấu
	Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
	(Nguyễn Đình Thi)
Người lính TT qua ngòi bút của Quang Dũng không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của QD đã giúp ông thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương. Như vậy trong khổ thơ này, QD đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính TT không chỉ bằng những nét khắc họa bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
*4 câu sau: trực tiếp miêu tả sự mất mát, hi sinh anh dũng của chiến sỹ TT.
	“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
Có thể thấy nét nghĩa tương đồng trong cả 4 từ ở câu thơ khi tất cả đều ít nhiều gợi tới sự xa xôi, lạnh lẽo của cái chết. “rải rác” chỉ khoảng cách của các nấm mồ chiến sỹ trên đường hành quân; “biên cương” là nơi cuối cùng của đất nước và trong cảm nhận của những chàng trai đến từ HN đó cũng có thể coi là “viễn xứ”; “mồ” là hình ảnh trực tiếp nói đến cái chết. Tất cả những từ trên đem đến cho người đọc cảm nhận xót xa về sự thực nghiệt ngã: trong tuổi đôi mươi – cái tuổi đẹp nhất của cuộc đời, người chiến sỹ TT đã để lại cho đất nước, cho dân tộc...
Tuy nhiên ngòi bút QD ở đây không nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lý tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy, những nấm mồ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhờ nhiều từ Hán việt cổ kính, mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại mờ đi trước lý tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc:
	“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, phảng phất hình ảnh những tráng sỹ xưa “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” (coi cái chết nhẹ tựa lông hồng), họ đã lên đường theo tiếng gọi thiết tha của lý tưởng, của 1 khát vọng cao cả: cống hiến cả đời mình cho Tổ quốc. Cách nói ‘đời xanh” chứng tỏ họ ý thức rất rõ về sự quý giá vô ngần của tuổi thanh xuân. Nhưng họ hiến dâng cái đời xanh ấy không mảy may tiếc nuối, ngần ngại,... Đó cũng là tâm nguyện cao đẹp của lớp thanh niên VN thời chống Mỹ đã được Thanh Thảo thể hiện trong những câu thơ chân thanh, xúc động:
	“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
	Nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc?
	Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn đâu Tổ quốc?”
 Ta tưởng như gặp lại người chiến sỹ thuở nào trong thơ Phạm Ngũ Lão:
	“Công danh nam tử còn vương nợ
	Luống thẹ tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Hay người ly khách trong thơ của Thâm Tâm:
	“Chí lớn chưa về bàn tay không
	Thì không bao giờ nói trở lại”
Như vậy sau câu thơ đầu nới về cái chết, câu thơ tiếp theo đã thể hiện ý chí, lý tưởng của người chiến sỹ. Phải chăng, đây chính là hàm ý sâu xa của nhà thơ: các anh đã nằm lại trong nấm mồ miền viễn xứ nhưng khí phách, tinh thần vẫn mãi mãi tuổi hai mươi, và với Tổ quốc, với nhân dân các anh là bất tử, vẻ đẹp hào hùng toát ra từ ý chí, tâm nguyện của các anh vẫn có sức cổ vũ mãnh liệt tới muôn đời.
-Không chỉ hình ảnh cái chết, câu thơ miêu tả việc chôn cất tử sỹ cũng gây ấn tượng mạnh mẽ:
	“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Bút pháp mỹ lệ hóa của cảm hứng lãng mạn đã biến tấm áo quân phục sờn rách của người chiến sỹ thành tấm “áo bào” sang trọng, đẹp đẽ. Hình ảnh thơ đã gợi đến lý tưởng “chí làm trai dặm nghìn da ngựa” của đấng trượng phu thời phong kiến, họ coi cái chết ngoài chiến địa và lấy “da ngựa bọc thây” là niềm tự hào. Những người lính TT hôm nay cũng coi việc chiến đấu cho lý tưởng là niềm vinh quang và sẵn sàng chết cho lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cách nói giảm “về đất” không chỉ làm bớt nỗi đau mà còn gợi nhiều tầng ngĩa sâu sắc. Các anh đã từ biệt gia đình, quê hương, đã chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Và giờ đây Tổ quốc trìu mến, yê

Tài liệu đính kèm:

  • docTuan_7_Tay_Tien.doc