MODULE THCS 20: SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ DẠY HỌC
Nội dung chuyên sâu: Vai trò của thiết bị dạy học trong đổi mới PPDH dạy học môn Hóa học lớp 8
Quá trình tự bồi dưỡng (bắt đầu từ ngày 18 tháng 10 năm 2017)
1. Thiết bị dạy học (Teaching Equipment)
Hiện nay có nhiều tên gọi khác nhau về TBDH. Các tên gọi sau đây thường được sử dụng trong ngôn ngữ nói và viết hiện nay.
Thiết bị giáo dục - Educational equipments.
Thiết bị trường học - School equipmenls.
Đồ dùng dạy học - Teachìng equipments (aids/implements).
Thiết bị dạy học - Teaching equipments.
Dụng cụ dạy học - Teaching equipments (devices).
Phương tiện dạy học - Means (facilities) of teaching.
Học cụ - Leaming equipments.
Học liệu- Leaming (school) materials.
Về bản chất, các tên gọi trên đều phản ánh các dấu hiệu bản chất chung nhất của TBDH.
2. Chức năng của hệ thống TBDH
- Hệ thống TBDH là công cụ đặc thù của lao động sư phạm.
- Hệ thống TBDH phải cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hiện tượng, đối tượng, quá trình nghiên cứu.
- Hệ thống TBDH phải nâng cao hiệu quả dạy học, tăng cường nhịp độ trình bày tài liệu và chuyển tải thông tin.
- Hệ thống TBDH phải thỏa mãn nhu cầu và sự say mê học tập của HS.
- Hệ thống TBDH phải làm giảm nhẹ cường độ lao động sư phạm của người dạy và người học.
ủa GV, HS. - Các thiết bị loại này gọn nhẹ, dễ bảo quản, sử dụng được nhiều lần. - Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc đổi mới nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học. Một số hạn chế khi sử dụng các TBDH hiện đại: - Phải có lưới điện ổn định. - Các thiết bị đắt tiền, do vậy không thể trang bị đại trà, đầy đủ theo nhu cầu của giảng dạy của các bộ môn. - Cần được bảo quản cẩn thận và cần có phòng riêng vì khó di chuyển. - Người sử dụng các TBDH hiện đại cần có trình độ và cần được huấn luyện. Việc kết hợp hòa các TBDH truyền thống và TBDH hiện đại trong quá trình dạy học sẽ kích thích hứng thú, tăng khả năng tư duy của HS, HS sẽ tự mình tìm tòi, khai thác kiến thức mới. Như vậy, ngày nay TBDH đã góp phần đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học. b. Phân loại theo tính năng công nghệ, quá trình chế tạo và sử dụng Theo quan điểm này, TBDH được chia làm hai nhóm: Nhóm 1: Gồm các loại thiết bị thông thường, có nguồn gốc tự nhiên hoặc có cấu tạo và tính năng kĩ thuật đơn giản. Nhóm các thiết bị thông thường bao gồm: Tự nhiên, nguyên mẫu: - Các vật tự nhiên, vật thật, các vật coi là nguyên mẫu không bị thay đổi khi đưa vào dạy học: cây, củ, quả, mẫu đất, mẫu nước, hoá chất, kìm, kéo, búa... - Lời nói và các nghi thức lời nói: độc thoại, đối thoại, hội thoại... - Các hành vi giao tiếp và biểu đạt không lời: cử chỉ, điệu bộ, vẻ mặt, phong cách, đi lại... Dụng cụ giảng dạy và học tập: Dụng cụ dùng chung, công cộng: bảng phấn, giấy, bút, bàn học, bàn thí nghiệm, thước kẻ, máy tính cầm tay... Dụng cụ cá nhân: bảng HS, vở, thước kẻ, máy tính cầm tay, com-pa, bút viết các loại... Tài liệu giáo khoa: - Tài liệu in: sách giáo khoa sách giáo viên, sách bài tập, sách tham khảo của GV, HS. - Tài liệu và bản đồ, tranh ảnh của các môn học. Nhóm 2: Các loại thiết bị kĩ thuật được sản xuất công nghiệp, có tính chất chuyên nghiệp và có tính năng kĩ thuật phức tạp. Các thiết bị nghe nhìn: - Máy và băng đĩa ghi âm, các thiết bị phát âm như loa phóng thanh, chuông, còi, tín hiệu, các nhạc cụ. Tất cả các thiết bị này tác động vào thính giác. - Máy ảnh, kính lúp, kinh hiển vi, ống nhòm, kính viễn vọng, các bản vẽ kĩ thuật, máy chiếu ảnh và hình vẽ. Các phương tiện này tác động vào thị giác. - Máy băng đĩa hình, video, các loại phim điện ảnh, đèn chiếu, phim dương bản, phim giáo khoa, phim khoa học, phim tài liệu, phim hoạt hình. Tất cả phương tiện này tác động vào thính giác và thị giác (cả nghe và nhìn). Các máy móc kĩ thuật thực hành, thực nghiệm, thí nghiệm theo môn học: Các dụng cụ, thiết bị thực hành, thực nghiệm theo môn học: Loại thiết bị này làm công cụ trực tiếp của việc dạy và học, qua thí nghiệm, thực hành, HS thu thập những thông tin, những bằng chứng, dữ liệu, sự kiện để giải quyết các vấn đề, tìm những kiến thức, kĩ năng mà HS cần đạt được. Những loại thiết bị này giúp cho việc học theo hướng nghiên cứu, khám phá, tìm và giải quyết vấn đề. Đó là những thí nghiệm sinh học, hoá học, vật lí; các bộ dụng cụ đo lường vật lí, hoá học; các thiết bị điện, điện tử, cơ học, quang học, công nghệ. - Sa bàn và mô hình kĩ thuật động: thể hiện sự vận động, diễn biến của các hiện tượng, quá trình, cơ cấu, quy luật, logic và những nguyên tắc trừu tượng. Những loại thiết bị này cho phép người học tương tác với thiết bị, khai thác sử dụng chúng theo nhiều phương thức, mức độ khác nhau. Điều này phụ thuộc nhiều vào sự sáng tạo của GV. Các phương tiện tương tác mạnh: Đây là các TBDH có tính năng sư phạm chung, không chỉ bó hẹp ở từng môn học. Bao gồm máy tính điện tử, các phần mềm của máy vi tính, các PMDH, sử dụng thông tin trên mạng. Tương tác cửa các loại phương tiện này, chủ yếu phụ thuộc vào tính năng kĩ thuật của máy: cấu hình, tốc độ, âm thanh,... Khai thác phương tiện này có đặc điểm quan trọng là phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của mỗi GV và HS. 4.1.2. Bản chất của thiết bị dạy học - TBD H phản ánh các đối tượng nghiên cứu, phản ánh quá trình dạy và học. - TBDH chứa đựng trong nó di sản vật chất và phi vật chất của thế hệ trước. - TBDH chứa đựng thông tin về các đối tượng nhận thức. - TBDH là biểu trưng văn hoá của một nền giáo dục. - TBDH là phương tiện tái hiện kiến thức và phương pháp nghiên cứu của các nhà khoa học. - TBDH là phương tiện rút ngắn quá trình nhận thức và tạo niềm tin khoa học. - TBDH hàm chứa nội dung và PPDH. 4.1.3. Các chức năng của thiết bị dạy học - Chức năng cơ bản và quan trọng nhất của TBDH là chức năng thông tin: + TBDH học chứa đầy đủ thông tin kiến thức về nội dung dạy học. Người dạy hiểu biết về những thông tin đó và sử dụng TBDH để chuyển tải thông tin đến người học. + TBDH chứa thông tin về PPDH, nó hướng người dạy đến việc lựa chọn PPDH nào là hơp lí và hiệu quả. - Thiết bị dạy học có chức năng phản ánh: TBDH là hiện thực khách quan, vì vậy nó phản ánh các sự vật, hiện tượng, các quá trình, các quy luật khách quan của xã hội, của tự nhiên và của tư duy. Các nội dung và chi tiết mà nó phản ánh sẽ được người dạy và người học tiếp nhận trong quá trình dạy học và cùng nhau tương tác, phối hợp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ dạy học. - Thiết bị dạy học có chức năng giáo dục: + TBDH có khả năng làm cho quá trình giáo dục trở thành quá trình tự giáo dục, làm cho quá trình nhận thức trở thành quá trình tự nhận thức, làm cho quá trình dạy học trở thành quá trình tự học của HS. HS có thể làm việc với TBDH để tự học, tự nhận thức với sự hướng dẫn, định hướng của GV. + TBDH hàm chứa tư duy của các nhà khoa học. + TBDH hàm chứa quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, vì vậy nó có chức năng giáo dục toàn diện. - TBDH có chức năng phục vụ: TBDH là phương tiện phục vụ trực tiếp cho GV và HS hoạt động trong quá trình dạy học nói chung, cho từng bài học, từng đơn vị kiến thức trong một bài học nói riêng. 4.1.4. Vị trí và mối quan hệ của thiết bị dạy học với các thành tố của quá trình dạy học Hiểu theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình dạy học bao gồm 6 thành tố cơ bản: mục tiêu, nội dung, phương pháp, TBDH (phương tiện), người dạy, người học. Các thành tố này tương tác qua lại tạo thành một chỉnh thể vận hành trong môi trường giáo dục của nhà trường và môi trường kinh tế - xã hội của cộng đồng. Theo quan điểm lí luận dạy học hiện đại thì TBDH là 1 trong 6 thành tố chủ yếu của quá trình dạy học. TBDH chịu sự chi phối của nội dung và PPDH. Nội dung dạy học quy định những đặc điểm cơ bản của TBDH. Bởi lẽ TBDH phải tính đến một cách toàn diện các đặc điểm của nội dung, chương trình. Mỗi TBDH phải được cân nhắc, lựa chọn để đáp ứng được nội dung chương trình. Việc đổi mới PPDH hiện nay là một yêu cầu hàng đầu đặt ra cho ngành Giáo dục ở tất cả các quốc gia trên thế giới, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới về nội dung chương trình, cần thiết phải đưa vào các TBDH, nhất là các TBDH hiện đại. Người ta nhận thấy các TBDH giúp cho GV và HS tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực của HS, góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học. TBDH là phương tiện và là một trong những điều kiện cần thiết để GV thực hiện được các nội dung giáo dục, giáo dưỡng và phát triển trí tuệ, khơi dậy tố chất thông minh của HS. Trong quá trình dạy học, TBDH vừa là công cụ giúp GV chuyển tải thông tin, điều khiển hoạt động nhận thức của HS, vừa là nguồn tri thức đa dạng và phong phú. Chương trình và sách giáo khoa THCS mới được viết theo hướng tổ chức hoạt động nhận thức tích cực cho HS, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học. TBDH là một thành tố quan trọng quyết định sự thành công của việc đổi mới nội dung chương trình và sách giáo khoa THCS. Mối quan hệ giữa TBDH với các thành tố khác của quá trình dạy học được mô tả trong sơ đồ sau: Mục tiêu Tóm lại: TBDH có vị trí quan trọng trong trường phổ thông. Trong quá trình dạy học, TBDH chịu sự chi phối của nội dung và PPDH. Nội dung dạy học quy định những đặc điểm cơ bản của TBDH. TBDH lại được lựa chọn để đáp ứng được nội dung chương trình, đồng thời cũng phải thoả mãn các yêu cầu về sư phạm, kinh tế và yêu cầu về thẩm mĩ, sự an toàn cho GV và HS. Trong đổi mới PPDH theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS, bồi dưỡng năng lực thực hành, để HS có thể tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, khám phá kiến thức thì TBDH giữ vai trò vô cùng quan trọng. 4.1.5. Vai trò cùa thiết bị dạy học trong quá trình dạy học a. Vai trò của thiết bị dạy học đối với phương pháp dạy học - TBDH góp phần nâng cao tính trực quan của quá trình dạy học. Giúp HS nhận ra những sự việc, hiện tượng, khái niệm một cách cụ thể hơn, dễ dàng hơn. Mặt khác, TBDH là nguồn tri thức với tư cách là phương tiện chứa đựng và chuyển tải thông tin đến người học. - TBDH hướng dẫn hoạt động nhận thức của HS thông qua việc đặt các câu hỏi gợi mở của GV, để: + Nhận biết tên gọi, tính năng của thiết bị, + Lắp ráp thiết bị để tiến hành thí nghiệm thực hành, + Nhận biết, thu thập và phân tích kết quả thí nghiệm. - Thông qua quá trình làm việc với TBDH, HS phát triển khả năng tự lực nắm vững kiến thức, kĩ năng: + Kĩ năng sử dụng các thiết bị kĩ thuật, + Kĩ năng thu thập dữ liệu, + Kĩ năng quan sát, phân tích, tổng hợp, kết luận. Từ đó HS tự lực nắm vững kiến thức và phát triển trí tuệ. - Việc lựa chọn để thực hiện PPDH và việc sử dụng TBDH có ảnh hưởng đáng kể tới mức độ tiếp thu kiến thức và kĩ năng của HS trong quá trình dạy học. Ta có thể tham khảo biểu đồ sau đây để thấy rõ hơn về vai trò của TBDH trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng của HS. - Sử dụng các TBDH trong khi tiến hành các thí nghiệm, thực hành giúp rèn luyện tính kiên trì, cẩn thận, khéo léo, cần cù và trung thực của HS. Qua đó rèn luyện lòng say mê nghiên cứu, mong muốn tìm kiếm kiến thức, say mê khoa học. - TBDH là một thành tố quan trọng trong quá trình dạy học. Sử dụng TBDH một cách hợp lí, đúng lúc, đúng chỗ sẽ đem lại hiệu quả cao trong dạy học. Việc sử dụng có hiệu quả các TBDH phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, sự sáng tạo mang tính nghệ thuật của mỗi GV và sự hỗ trợ hiệu quả của viên chức thiết bị trường học. - TBDH có tầm quan trọng đặc biệt trong đổi mới PPDH. Đổi mói PPDH không phải là việc tìm ra một phương pháp hoàn toàn mới, khác hẳn với các PPDH hiện hành. Đổi mới PPDH là tìm cách tốt nhất phát huy hiệu quả của hệ thống PPDH đang có trên cơ sở sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mà đặc biệt là CNTT&TT. Trong quá trình thực hiện đổi mới PPDH, nên tập trung vào các hướng sau đây: + Thay đổi cách thức tổ chức dạy và cách thức tổ chức học để đạt được hiệu quả dạy học cao nhất. + Thay đổi các điều kiện dạy học để phát huy hiệu quả của các PPDH hiện hành. + Sử dụng công nghệ - kĩ thuật tiên tiến vào quá trình dạy học, đặc biệt là sử dụng, ứng dụng các thành tựu của CNTT&TT. b. Vai trò cùa thiết bị dạy học đối với nội dung dạy học - TBDH đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu của từng đơn vị kiến thức, mục tiêu của từng bài học, vì vậy nó có vai trò đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả cao nhất các yêu cầu của chương trình và nội dung sách giáo khoa. - TBDH đảm bảo cho việc phục vụ trực tiếp cho GV và HS cùng nhau tổ chức các hình thức dạy học, tổ chức nghiên cứu từng đơn vị kiến thức của bài học nói riêng và tổ chức cả quá trình dạy học nói chung. - TBDH đảm bảo cho khả năng truyền đạt của GV và khả năng lĩnh hội của HS theo đúng yêu cầu nội dung chương trình, nội dung bài học đối với mỗi khối lớp, mỗi cấp học, bậc học. c. Thiết bị kĩ thuật với đổi mới phương pháp dạy học - Hiện nay, thiết bị kĩ thuật được sử dụng trong dạy học ngày càng phong phú, hiện đại, chiếm ưu thế, đã và đang trở thành một trong những phương tiện quan trọng để tiến hành đổi mới PPDH. Các thiết bị kĩ thuật như máy vi tính, projector, các phần mềm thông dụng, cùng các phương tiện nghe nhìn khác được phối hợp sử dụng rộng rãi để dạy học và rèn luyện kĩ năng cho HS đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. - Tác dụng của thiết bị kĩ thuật đối với quá trình dạy học: Đối với quá trình dạy học, thiết bị kĩ thuật có khả năng rất lớn. Đó là hệ thống tín hiệu quan trọng thứ hai sau lời nói, giúp quá trình nhận thức bền vững, chính xác; giúp rèn luyện kĩ năng thực hành thông qua ba hành động: nghe, nhìn, tiếp xúc trực tiếp; làm tăng năng suất lao động của GV và HS; làm thay đổi phong cách tư duy và hành động. - Ứng dụng thiết bị kĩ thuật vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng GV. Khi TBDH trở thành yếu tố bắt buộc trong các giờ dạy thì GV phải tự rèn luyện, tự học nhiều hơn để thuần thục các kĩ năng dạy học, đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu của PPDH mới. Những GV có quá trình tự học, tự rèn luyện kém đều dẫn đến nguy cơ bị đào thải. - TBDH góp phần đổi mới PPDH. Việc đưa TBDH tham gia vào tiết học có sự chuẩn bị trước sẽ tạo ra tâm thế sẵn sàng của người dạy và người học. HS hứng thú học tập hơn. Khi đó sẽ tạo được sự chủ động trong tiếp nhận kiến thức, không khí lớp học sôi nổi, tâm lí sáng tạo được khơi nguồn... Chất lượng giờ học nhờ đó được nâng lên. - Thực trạng ứng dụng thiết bị kĩ thuật vào dạy học của GV: Để đánh giá năng lực chuyên môn, chúng tôi nêu câu hỏi: “Bất cập hiện nay về đội ngũ GV là gì?". Câu trả lời khá tập trung là: “GV gặp nhiều khó khăn vì TBDH còn nghèo nàn, khả năng, kĩ năng và động lực sử dụng thiết bị của GV chưa cao,... là rào cản của quá trình đổi mới PPDH". Đó là sự bức xúc được phản hồi từ cơ sở. - Đa số GV chưa sử dụng thành thạo thiết bị kĩ thuật, còn có tâm lí ngại khó, giấu dốt trong việc sử dụng thiết bị, đặc biệt là ứng dụng CNTT vào dạy học. - Động lực nghề nghiệp chưa cao, một bộ phận còn thờ ơ với việc đổi mới PPDH. Lối dạy học cũ vẫn tồn tại như một thói quen cố hữu, nhất là ở số GV đã lớn tuổi. 5. Yêu cầu khách quan của việc đổi mới phương pháp dạy học kết hợp với việc sử dụng thiết bị dạy học hiện đại Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 khoá VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho ngưòi học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS, sinh viên”. - Đặc điểm của thời đại (xã hội tri thức, thông tin), yêu cầu dạy cách học - phương pháp học là chủ yếu. Thời đại ngày nay cuộc cách mạng trí năng lấy máy vi tính và kĩ thuật điện tử làm chủ đạo, sự giao thoa giữa khoa học và kĩ thuật, thông tin bùng nổ, khối lượng thông tin tăng nhanh và có giá trị không lâu; nội dung thông tin ngày càng chuyên sâu và phức tạp;... - Quan niệm đúng về mục tiêu đào tạo đã thay đổi, nếu trước đây việc dạy - học chủ yếu là để trả lời câu hỏi cái gì và vì sao? Thì nay việc dạy học không chỉ để trả lời câu hỏi cái gì, vì sao, mà còn để trả lời câu hỏi như thế nào? bằng cách nào? và để làm gì? Nghĩa là, mục tiêu dạy học phải đạt: kiến thức, kĩ năng và thái độ. Hơn nữa, trước đây việc dạy và học chủ yếu tách biệt với đời sống và thực tiễn sản xuất, thì ngày nay nhà trường, viện nghiên cứu, doanh nghiệp gắn liền với nhau, nên không thể chỉ học lí thuyết mà còn phải học kĩ năng và học hành vi ứng xử với tự nhiên, xã hội và với chính bản thân mình. 6. Sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở 6.1. Đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở - Trước đây với PPDH truyền thống, GV truyền thụ kiến thức cho HS theo kiểu thuyết trình, giảng giải (đọc - chép), minh họa bài giảng, HS thụ động tiếp thu kiến thức bằng cách nghe, ghi nhớ và tái hiện lại các kiến thức. Từ năm 2000 trở lại đây, để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, với sự bùng nổ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ, nhiều PPDH mới đã được thực hiện. Trong các PPDH mới, GV là người tổ chức giờ học, hướng dẫn, gợi mở, luôn ở thế đưa HS vào các tình huống có vấn đề, tổ chức cho HS thảo luận, nhâp vai, tự nghiên cứu để đi đến giải quyết vấn đề. - Thực hiện mục tiêu đổi mới PPDH trong các trường phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành một số nội dung: + Đổi mới PPDH, đổi mới chương trình SGK. + Tăng cường đội ngũ GV cả về chất lượng và số lượng, đáp ứng yêu cầu dạy và học theo phương pháp mới. GV được tham gia tập huấn sử dụng hiệu quả TBDH nhằm thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục. + Nhà trường được xây dựng không chỉ khang trang về khuôn viên, cảnh quan mà còn có thêm nhiều thiết bị hiện đại phục vụ cho việc dạy - học theo hướng đổi mới. + Hệ thống thư viện được chú trọng cả về số lượng và chất lượng thông tin. + Hệ thống mạng Internet được kết nối. - Dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như những hỗ trợ từ các đơn vị, dự án, tổ chức ban ngành, các trường THCS đã triển khai thực hiện một số nội dung chương trình giáo dục theo đúng quy định và hướng dẫn của ngành như: + Nhiều trường đã cải tiến nội dung và PPDH phù hợp với đối tượng HS. Sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp trong suốt cả năm học để phụ đạo HS yếu, kém, bồi dưỡng HS khá, giỏi. + Đối với HS diện xét tuyển, các trường dành 1 tháng hè để ôn tập, bồi dưỡng kiến thức trước khi vào năm học mới và tổ chức phụ đạo trong cả năm học giúp HS có thể theo kịp chương trình học. - Các trường đã áp dụng nhiều PPDH mới nhằm đổi mới PPDH, phù hợp với đối tượng HS: tăng cường các hình thức bổ trợ kiến thức cho HS, sử dụng hiệu quả TBDH, ứng dụng CNTT&TT góp phần nâng cao chất lượng dạy học. - Trong quá trình giảng dạy, các trường THCS đã tăng cường sử dụng TBDH, khuyến khích GV ứng dụng CNTT&TT vào giảng dạy. Các trường đã chọn lọc, kết hợp giữa phát huy yếu tố tích cực trong PPDH truyền thống cùng việc tích cực đổi mới PPDH: + Phương pháp thuyết trình: Đối với HS dân tộc, ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, mặt bằng dân tri chưa cao, khả năng giao tiếp của các em còn yếu, tư duy chậm, GV phải dùng lời nói ngắn gọn, dễ hiểu. Trong bài giảng, các ví dụ đưa ra cần cụ thể, các khái niệm phải được giải thích rõ ràng,... + PPDH nêu vấn đề: là tổ chức hoạt động nhận thức của HS theo con đường hình thành và giải quyết vấn đề. PPDH nêu vấn đề giúp HS không chỉ thu được các tri thức khoa học mới mà còn hình thành phương pháp tư duy logic trong tiến trình giải quyết vấn đề. Phương pháp này còn có tác dụng phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của HS trong quá trình nhận thức, vì vậy HS lĩnh hội tri thức một cách vững chắc. + Tổ chức cho HS học tập theo nhóm: với các nhóm nhỏ, HS có thể trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập. Cách học tập theo nhóm giúp người học tham gia vào đời sống xã hội một cách tích cực, tránh tính thụ động, ỷ lại. + Hướng dẫn HS thực hành: GV tổ chức cho HS tham gia vào các hoạt động thực tế, HS được trực tiếp quan sát, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề theo cách của riêng mình, qua đó hiểu được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm kiến thức một cách vững chắc và rèn luyện đuợc các kĩ năng cần thiết. - Tuy nhiên, trong khi khảo sát tác giả nhận thấy trong quá trình đổi mới PPDH tại các trường THCS còn xảy ra một số bất cập sau: + Trình độ, năng lực chuyên môn của GV còn thấp. + Nhận thức của GV về đổi mới PPDH chưa đầy đủ. + Nội dung, chương trình dạy học còn nặng đối với với HS người dân tộc (Các trường THCS ở miền núi, vùng dân tộc). + Nhiều trường còn coi trọng thành tích hơn chất lượng giáo dục. + TBDH thiếu và chất lượng chưa cao. + CSVC bổ trí chưa hợp lí (phòng học, bàn ghế theo lớp học truyền thống không phù hợp.) + Ý thức HS chưa cao. Chưa có quy định, chế tài trong việc kiểm tra, đánh giá, khen thưởng. 6.2. Hiệu qủa sử dụng thiết bị giáo dục Hiệu quả là đại lượng chỉ mức độ tác động, gây ra hiệu lực, dẫn đến kết quả nhất định và để lại ảnh hưởng của kết quả đó sau khi kết thúc chu trình làm việc hoặc hoạt động. Các thành phần của hiệu quả sử dung thiết bị dạy học: Với những điều kiện xuất phát nhất định như quy hoạch và mức độ trang bị, tính năng kinh tế kĩ thuật của thiết bị, phương hướng và quan điểm chỉ đạo chuyên môn, môi trường địa lí và văn hoá của từng địa phương, chuẩn nội dung kiến thức, tình trạng cơ sở hạ tầng kĩ thuật của trường học và lớp học,... là những dữ kiện cho trước phải tuân thủ, thì có thể xem cấu trúc của hiệu quả sử dụng thiết bị bao gồm những thành phần cơ bản là: hiệu suất trong và hiệu suất ngoài. Hiệu suất trong thể hiện ở một số quá trình và hoạt động sau: - Quản lí, tổ chức sử dụng, giám sát và đánh giá. - Cách thức, phong cách và kĩ năng sử dụng của GV và của HS. - Những hoạt động cải tiến hoặc phát triển có liên quan đến thiết bị. - Cường độ và nhịp độ sử dụng thiết bị trong quá trình giáo dục. - Hao phí và tổn thất xảy ra trong việc sử dụng thiết bị. Hiệu suất ngoài thể hiện qua một số quá trình và hoạt động sau: - Quá trình và hoạt động học tập của người học. - Hoạt động giảng dạy của GV. - Môi trường học tập, trong đó có các quan hệ như hợp tác, tham gia, thực hành nghiên cứu khoa học và các quá trình thông tin, truyền thông, giao tiếp văn hoá - xã hội. - Các quan hệ và sinh hoạt văn hoá, đời sống của cộng đồng dân cư địa phương và gia đình. 6.3. Mục tiêu và kết quả sử dụng thiết bị - Đây là thành phần cho biết T
Tài liệu đính kèm: